--> Đèn Không Hắt Bóng - game1s.com
Polly po-cket

Đèn Không Hắt Bóng





Đọc xong, Naôê lật phía sau xem thử mặt bên kia có viết gì nữa không, rồi nhìn lại cái phong bì một lần nữa.
- Chẳng còn ra thế nào cả! - Kôbasi lên tiếng - Khác nào ký lệnh xử tử ông già! Tôi không hiểu được bọn công chức cần gửi cho chúng ta một bức thư như thế này làm gì.
- Ở tòa thị chính có hỏi han gì về bệnh nhân Uênô không?
- Không... Hình như không... - Kôbasi lẩm bẩm một cách thiếu quả quyết và quay về phía Akikô đang đứn gsau lưng anh, để tìm chỗ dựa.
- Đúng ạ, không có ai hỏi gì về Uênô đâu, - Akikô xác nhận.
- Anh vẫn gửi hóa đơn cho họ đấy chứ?
- Dĩ nhiên. Tháng nào tôi cũng viết hóa đơn.
- Anh thử nhớ xem, có ai hỏi gì về hiệu quả điều trị không? Qua điện thọai chẳng hạn.
Kôbasi liếc mắt về phía Akikô.
- Nói chung thì ... có một lần người ta.. gọi điện thọai hỏi tôi...- Anh trả lời ngần ngừ.
- Hỏi gì?
- Hỏi xem cụ Uênô được truyền máu như vậy thì có khỏi bệnh không?
- Thế anh trả lời thế nào?
- Tôi nói rằng dĩ nhiên là không. Việc truyền mau giữ cho bệnh nhân sống, nhưng không làm khỏi bệnh được.
- Thế... Nhưng anh không biết giấy tờ gì chứ?
- Có viết ạ. Khoảng một tháng trước đây họ có gửi cho tôi một tờ phỏng vấn, và tôi đã trả lời như vừa nói.
Naôê gảy tàn thuốc lá và lắc đầu.
- Bây giờ thì rõ rồi.
- Cái gì rõ ạ?
- Bức thư này là câu trả lời cho tờ giấy của anh.
- Nhưng tôi nói đúng! Với tư cách là thầy thuốc tôi hòan tòan đúng! truyền máu chỉ làm cho bệnh nhân thấy đỡ trong một thời gian.
- Dĩ nhiên anh đúng. Nhưng bọn công chức cũng đúng.
- Thế nào ạ? - Kôbasi chống hai tay lên mép bàn.
- Có lệ cấm trả trợ cấp nếu việc điều trị không có hiệu quả mà lại kéo dài. Lại còn rất đắt nữa.
- Như vậy thì dã man quá! Vì bệnh nhân sẽ chết ngay! Không kéo lấy được một tuần.
- Đúng.
- Vậy tiên sinh thấy nên thế nào? Đành chịu à?
- Chuyện này dĩ nhiên là khủng khiếp, nhưng... cũng khá lô-gích.
- Với tư cách là thầy thuốc tôi không thể chấp nhận như vậy được!
- Đúng. Nhưng anh phải hiểu cả mặt bên kia nữa: nếu chấp thuận một cách điều trị không có hiệu quả, thì có những bác sĩ sẽ tìm cách trục lợi... Trong cách lập luận của họ cũng có cái lô-gích của nó.
- Vậy thì bây giờ phải làm gì?
Mặt Kôbasi nhợt nhạt như tờ giấy.
Akikô lo lắng quan sát hai người.
- Giá viết sai sự thật đi thì khôn ngoan hơn.
- Nói dối à?
- Nói dối. Viết rằng việc truyền máu có một hiệu quả thần diệu.
- Lẽ nào có thể làm như vậy?
- Cần phải làm như vậy.
- Ừ thì làm... Chẳng khó gì. Tôi sẽ viết ngay bây giờ.
- Không, bây giờ muộn rồi.
- Tại sao?
- Anh đã viết một lần rồi. Anh đã cho họ biết tình hình thật. Bây giờ viết khác đi họ không tin anh nữa đâu.
- Thế thì làm thế nào?
- Chẳng làm thế nào được.
Naôê thấy khô cổ; ông đứng dậy vặn vòi nước vào ly và nốc một hơi hết sạch.
Kôbasi vẫn đứng ở tư thế cũ, hai tay chống vào bàn, và im lặng.
- Thế. Rõ cả, - cuối cùng anh ta nói. Chính tôi sẽ trả tiền truyền máu.
- Làm như vậy sẽ chẳng đưa đến đâu hết.
- Không, tôi đã quyết. Vì chính tôi có lỗi.
Akikô kéo ống tay áo Kôbasi.
- Nếu không, tôi không thể nào yên tâm được. - Kôbasi nói tiếp, giọng khản đi vì xúc động.
- Nhưng anh phải hiểu rằng việc truyền máu sẽ giúp cho Uênô sống thêm được một tháng, giỏi lắm là hai. Chỉ thế thôi. Anh cho rằng chỉ cần có thế là anh sẽ yên tâm hay sao?
- Vâng. Dù chỉ thêm được một tháng cũng vậy.
- Anh làm dáng một cách hoàn toàn ngu xuẩn! - Naôê nói khẽ, nhưng rất rõ ràng, làm cho mọi người sửng sốt. - Anh là một thằng công tử bột thuộc loại tệ hại nhất! - Kôbasi ngạc nhiên trố mắt nhìn ông nhưng rồi lại cụp mắt xuống. Akikô và Hakanisi quên cả công việc, kinh hãi hết nhìn Kôbasi lại nhìn sang Naôê.
Naôê cầm tập bệnh án để trên bàn, giở qua mấy tờ. Rồi ông nói, giọng khô khan:
- Bà cụ đã biết rằng chồng bà sẽ không khỏi bệnh. Đặt bình truyền đi.
- Bình truyền gì?
- Truyền glucoza nhuộm đỏ cho bệnh nhân.
- Nhuộm đỏ? Để làm gì?
- Để cho dung dịch trông giống như máu. - Naôê không che giấu nỗi bực bội.
- Nhưng như thế là lừa b... - Kôbasi bỗng im bặt giữa chừng.
Naôê khoanh hai tay trước ngực nhìn ra cửa sổ.
- Tiên sinh đề nghị giải quyết vấn đền bằng cách lừa dối ư? Giả vờ như thể vẫn tiếp tục truyền máu chứ gì?
- Hoàn toàn đúng.
- Không được, như thế là dối trá, là bịp bợm. Như thế không xứng đáng với người thầy thuốc!
- Xứng đáng, không xứng đáng... Vấn đề không phải ở chổ ấy. Không có lối thoát nào khác.
- Nhưng... - Kôbasi nhìn Naôê như thể đang trông thấy trước mặt mình một quái vật. - Ông già sẽ chết ngay... - Giảng giải điều này cho Naôê thì thật là ngu xuẩn, nhưng Kôbasi không kìm nổi. - Chẳng lẽ tiên sinh không cần biết đến điều đó hay sao?
- Thì ngay việc tiếp máu cũng chỉ làm cho ông cụ sống thêm được vài tháng là cùng.
- Rút ngắn thời hạn ấy là bất lương!
- Bất lương ư? - Naôê sấn tới sát người Kôbasi. - Anh nói là bất lương phải không? - Ông nhìn Kôbasi từ đầu đến chân một cách căm giận đến nỗi anh bất giác lùi lại.
- Không phải sao? - Kôbasi bàng hoàng nói lắp bắp. - Nhuộm glucoza, giả làm máu mà là lương thiện ư?
- Khi không còn có thể làm gì nữa, thì phải làm sao cho người ta được chết một cách bình yên. Dĩ nhiên huyết thanh nhuộm đỏ không thể lừa được anh. Vì anh đã biết hết sự thật. Nhưng Uênô và cụ bà không biết. Phải để cho họ tin rằng chúng tra đã làm hết cách.
Kôbasi ngẫm nghĩ. Có lẽ trong những lời Naôê vừa nói có một phần sự thật chăng? Không. Đối với người thầy thuốc con đường ấy không thể chấp nhận được. Làm như vậy thì còn gì là ý thức bổn phận.
- Người thầy thuốc có bổn phận cứu giúp bệnh nhân, làm cho bệnh nhân tất cả những gì có thể làm được, - Kôbasi một mực không nhượng bộ. - Và nếu khả năng bị hạn chế thì phải cố kéo dài cuộc sống của bệnh nhân dù chỉ là một ngày.
- Câu trích dẫn ấy đúng.
- Chỉ là một câu trích dẫn thôi ư?
- Tiếc thay thế giới của chúng ta không phải là một thế giới lý tưởng.
Kôbasi cũng hiểu điều đó nhưng vẫn không sao đồng tình với Naôê được. Anh cãi tiếp:
- Người thầy thuốc trước hết phải là một con người nhân đạo.
- Chà, nhân đạo! - Naôê mỉm một nụ cười chua chát và ngồi lại cho thỏai mái, chân này ghếch lên kia. - Thế anh có biết rõ nhân đạo nghĩa là gì không?
- Tôi biết. Có nghĩa là trân trọng tính mạng của con người nói chung, có nghĩa là thương yêu đồng loại...
- Anh không lẫn lộn nhân đạo với từ bi đấy chứ?
- Không, tôi không lẫn lộn. Bất kỳ ai cũng phải tìm cách duy trì sự sống một khi nó còn thoi thóp trong con người.
- Duy trì sự sống... Hừm ... - Naôê nhếch mép trong một nụ cười méo mó. - Như vậy tức là theo anh, nhân đạo là ở chổ duy trì sự sống. Còn sống như thế nào thì không quan trọng, miễn là sống.
- Dĩ nhiên có thể có những hoàn cảnh đặc biệt, nhưng về nguyên tắc tất cả những điều tôi nói đều đúng.
- Ừ... Như vậy là anh chẳng hiểu gì hết. Trong các bệnh viện đại học của anh, các anh bị cách ly ra khỏi cuộc sống thực.
- Căn cứ vào đâu mà tiên sinh kết luận như vậy? - Kôbasi mới từ bệnh viện của trường đại học chuyển về bệnh viện Oriental chưa được bao lâu, cho nên lời lẽ của Naôê làm cho anh thấy bị xúc phạm trực tiếp.
- Để trở thành một người thấy thuốc và có kiến thức về đạo đứchọc, và thuộc lòng những nguyên lý của thực tiễn y học. Ngoài ra còn phải biết cách giúp cho người ta chết.
- Giúp cho người ta chết ư?
- Chính thế. Nhiều khi cần phải giúp cho bệnh nhân chấp thuận cái chết, làm sao cho bản thân bệnh nhân cũng như những người thân của họ đừng tự trách cứ chúng ta...
- Ở trường đại học không có một giáo trình nào như vậy. Trong chương trình không thấy có...
- Nếu trong chương trình có một giáo trình như vậy, chắc chắn tôi sẽ là một chuyên gia. - Naôê đưa hai bàn tay lên xoa xoa đôi má hóp.
- Giáo trình đào tạo những kẻ sát nhân?
- Đáng tiếc là gần đúng như vậy! ... Mỗi người thầy thuốc đều có phần nào là một kẻ sát nhân ; cứ như hiện nay thì trong khá nhiều trường hợp bổn phận nghề nghiệp của anh ta là làm sao thuyết phục cho bệnh nhân thấy rõ rằng mình không thể nào thoát chết được.
- Nhưng sứ mệnh của chúng ta là cứu sống! Và trên thực tế, chúng ta đang cứu người ra khỏi nanh vuốt của cái chết.
- Cứu à? - Naôê đưa về phía Kôbasi một cái nhìn đối địch. - Chúng ta không cứu đâu. Chính con người tự cứu lấy mình - người nào chưa cạn kết sức vật lộn với cái chết. Còn người thầy thuốc chỉ chìa tay ra giúp họ một chút đúng vào lúc cần thiết. Và chỉ có thế thôi.
- Dù sao thì hạ thấp vai trò của người thầy thuốc đến như vậy cũng...
- Đáng tiếc là có những lúc phải như vậy. - Naôê rời ghế đứng dậy. - Thôi, tôi đi đây.
- Thế còn Uênô thì sao? ... - Kôbasi nói, nhưng Naôê không để cho anh nói hết câu.
- Anh là bác sĩ điều trị Uênô, cho nên tôi sẽ không nói gì thêm với anh nữa. Anh thấy thế nào là đáng thì cứ thế mà làm.
- Nếu tôi... làm theo lời khuyên của tiên sinh, thì sau đó tôi biết nói thế nào với Uênô và vợ ông ấy.
- Sau một hai ngày tình trạng của bệnh nhân sẽ xấu đi. Lúc bấy giờ anh sẽ nói: chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được, nhưng đáng tiếc là hoàn toàn vô hiệu.
- Thế còn cái... thứ nước đỏ ấy thì tiếp mấy lần?
- Cũng như từ trước tới nay: một lần sáng, một lần chiều. Theo tôi hai lần là đủ. Đến khi bệnh nhân bắt đầu thấy mệt nặng thì thêm lần và tăng liều lượng. Cái chính là làm sao bệnh nhân cũng như vợ ông ta đều tin chắc rằng mình đang được điều trị đến mức tối đa.
- Không tiếp máu nữa thì bệnh nhân sẽ kéo được bao nhiêu lâu?
- Theo tôi thì độ năm sáu hôm.
- Tiên sinh sẽ trở về vào ngày mùng năm?
- Có thể.
- Có thể gọi điện cho tiên sinh ở Sappôrô được không?
- Tôi trọ ở khách sạn G., cứ hỏi ở phòng tiếp tân của khách sạn.
- Xin tiên sinh về sớm sớm.
- Vâng-vâng.
Naôê đi ra cửa, nhưng bỗng dừng lại. Ông quay về phía sau và đưa mắt nhìn mọi người - Kôbasi, Akikô, Hakanisi với một ánh mắt dịu dàng, thân ái mà không ai có thể ngờ là ông có được. Sau đó ông mở mạnh cánh cửa và đi ra hành lang.


Trong phi cảng hành khách không đông. Hôm nay trong những gian phòng mà thường ngày tiếng ồn ào không lúc nào ngớt, đều im lặng lạ lùng. Đa số các hành khách đều đã về nhà hay về các gia đình thân thuộc từ những ngày cuối năm, và những chuyến máy bay, những chuyến xe lửa trước đây mấy hôm còn đông nghịt thì bây giờ đều vắng khách. Tuy vậy hoạt động vận chuyển dĩ nhiên cũng không hề ngưng trệ trong những ngày đầu tháng giêng này.
Cửa lớn dẫn vào căn phòng đợi rộng mênh mông làm toàn bằng kinh của phi chảng được trang hoàng bằng những nhánh thông; ở các quầy điểm tâm đều có bày bánh tráng bột gạo, quít, là những món Tết thuộc một truyền thống nhiều thế kỷ; sau các quầy là những cô bán hàng mặc kimônô lộng lẫy, tóc chải theo kiểu cổ.
Bên ngoài mấy bức thường bằng kính, trời nắng nhưng lạnh. Mấy chiếc xe chở hành khách lần lượt đỗ trước phi cảng.
Nôrikô đứng trong phòng đợi của các tuyến bay nội địa và nhìn ra ngoài đường qua bức tường bằng kính. Cô mặc áo măng-tô màu xanh thẫm, tay cầm một cái túi màu trắng.
Giờ cất cánh là 3 giờ 10 buổi chiều; Naôê có hứa là sẽ đến trước nửa giờ. Đồng hồ trên tường chỉ 2 giờ 40 phút. Chắc anh ấy sẽ đến ngay. Nhưng có lẽ vi sắp sửa đồ đạc rềnh ràng cho nên đến chậm. Hồi sáng Nôrikô có gọi điện cho anh: "Có lẽ để em đến giúp anh xếp va-li nhé", nhưng Naôê trả lời: "Không cần!". Sau một câu trả lời như vậy mà vẫn đến thì không tiện, nhưng giá được cùng nhau từ nhà ra đi thì tuyệt biết mấy! Mà lại không phải sốt ruột ngồi đợi như thế này. Bây giờ Nôrikô thấy hối hận là đã không ghé nhà Naôê trước khi ra sân bay.
Thời gian đưa hành khách và hành lý lên máy bay kết thúc trước giờ cất cánh hai mươi phút. Nôrikô xem đồng hồ tay, rồi đưa mắt nhìn lên tường: cả hai cái đồng hồ đều chỉ giờ như nhau: ba giờ kém mười lăm. Bắt đầu lo lắng thật sự, Nôrikô ra đứng ở cửa. Xa lộ hôm nay vắng, đi mất một giờ là cùng. Vậy thì tại sao đến bây giờ anh vẫn chưa đến?
Loa phóng thanh cho biết rằng giờ ghi tên đi chuyến máy bay Sappôrô cất cánh lúc mười lăm giờ mười phút đã sắp kết thúc. Nôrikô nhìn lên đồng hồ treo tường một lần nữa: đúng ba giờ.
Vừa lúc ấy trước thềm có một chiếc tắc-xi phanh rít lại, và từ trên xe một người đàn ông mặc măng-tô màu xám thẫm bước xuống. Naôê.
"May quá!" - Nôrikô thở phào.
Naôê trả tiền cho người lái tắc-xi, đóng sập của xe lại và bước vào phòng đợi. Trống ngực Nôrikô đập thình thịch: lần này hạnh phúc không tuột khỏi tay cô nữa, ước mơ đang trở thành sự thật. Naôê vừa đưa mắt nhìn quanh vừa bước nhanh đến quầy ghi tên. Nôrikô chạy lại cạnh anh.
- Sao anh muộn thế?
- À em đến rồi à.
- Em lo quá... Em sợ anh không đến kịp.
- Có người gọi điện thành ra đi muộn.
Trong hành lang ra sân bay ồn ào, náo nhiệt như ngày hội, những ta áo kimônô lộng lẫy qua lại rất vui mắt.
Nôrikô đi máy bay lần này là lần đầu; cô có cảm giác là ai cũng nhìn mình, đâm ra luống cuống. Trong khi đó Naôê, cổ áo xốc cao lên, mắt thản nhiên nhìn về phía trước, bước vội vã trên sàn hành lang di động.
Máy bay cất cánh chậm mười phút.
Như một đứa trẻ tò mò, Nôrikô nhổm người trên ghế, cố nhìn qua cửa sổ máy bay. Người đàn ông đứng tuổi ngồi sát cửa sổ né sang một bên để cho cô dễ nhìn hơn.
Thành Tôkyô ở phía dưới trông như đồ chơi, và chẳng bao lâu đã mất hút. Sau mấy phút chiếc máy bay nghiêng hẳn sang một bên và đổi hướng đi về phía Bắc. Dòng chữ "Không hút thuốc" đã tắt. Những khu phố của thành phố khổng lồ đã nhường chổ cho những cánh đồng, những dãy núi. Nôrikô thấy cái gì cũng thú vị: những con đường trông mảnh như sợi chỉ, những ngôi nhà nép sát vào nhau.
Naôê im lặng hút thuốc. Một lát sau, khi anh giụi tắt điếu thuốc và ngả lưng dựa vào phía sau ghế, Nôrikô nói:
- Sáng nay bác sĩ Kôbasi tìm anh.
- Anh biết.
- Anh có nói chuyện với anh ta chứ?
- Vâng.
Lúc này rõ ràng là Naôê không thích nói chuyện. Anh quay mặt đi và nhắm mắt lại.
Chiếc máy bay đã lấy đủ độ cao và bắt đầu bay rất êm. Trong gian hành khách rất yên tĩnh, chỉ có tiếng động cơ dội vào đều đều.
"Máy bay của chúng ta đang bay qua hồ Inawasirô" - một cô chiêu đãi viên nói qua loa phóng thanh, và Nôrikô lại nhìn ra cửa sổ. Giữa một vùng núi, cái hồ sáng lấp lánh như một cái bảng lớn bằng kim loại. Núi non, thung lũng và hồ nước đều tràn ngập ánh sáng ngày tết. Mặt trời của năm mới đang chuyển dần về phía Tây, và những tia nắng chênh chếch trược trên kính cửa sổ.
Tiếng động cơ đều đều ru ngủ các hành khách. Naôê hình như đang thiu thỉu. Người đàn ông đứng tuổi ngồi sát cửa sổ cũng đã ngủ. Chỉ riêng Nôrikô chẳng bụng dạ nào mà ngủ cả.
Cô chiêu đãi viên lại thông báo rằng mấy phút nữa sẽ trông thấy vịnh Matsusima nổi tiếng. Đágn tiếc cho Nôrikô, chỉ có ngồi dãy ghế bên kia mới trông thấy vịnh. Cô nhìn những sườn núi mỗi lúc một dốc đứng lên; phía trước hiện rõ dần một dãy núi trắng xoá. Tuyết trên các đỉnh núi lấp loáng dưới ánh nắng.
"Chúng mình đang bay mỗi lúc một xa về phương Bắc", - Nôrikô thì thầm và liếc mắt nhìn trộm Naôê. Hai mắt anh nhắm nghiền; đường sống mũi thanh tú của anh trắng một cách thiếu tự nhiên - như lớp tuyết phủ trên các đỉnh núi.
Không hiểu tại sao, Nôrikô chợt thấy lo sợ; cô bỗng có cảm giác là hai người đang bị đuổi gấp phải chạy về phương Bắc, - về vùng băng tuyết, nơi mà không bao giờ sẽ có ai tìm ra họ. Lòng cô se lại vì một nỗi buồn da diết.
Cuối cùng các dãy núi tản ra, và trước mắt thấy dịu hẳn đi trước màu xanh đậm của vịnh Sangara dưới ánh sáng nhẹ của tà dương. Bên cạnh màu xanh của vịnh, những chóp núi phủ tuyết trông cành rực rỡ hơn. Những đường viền sắc nhọn một cách khắc nghiệt của nó làm cho Nôrikô nhớ tới một bức ảnh đăng trong một tờ tạp chí nào đấy: một vùng núi làm sào huyệt cho các quỷ thần.
Dòng suy tư của Nôrikô bị cắt đứt vì tiếng loa phóng thanh: "Mấy phút nữa máy bay của chúng ta sẽ hạ cánh xuống phi cảng Titôsê".
Nghiêng cánh sang bên phải, chiếc máy bay giảm dần độ caà. Phía trên còn lại một lớp mây. Mặt biển xanh ngắt hiên ra, viền bọt trắng ven bờ. Những khu rừng thông phủ tuyết vẽ thành một đường rỡ nét.
Đảo Hôkkaiđô.
Naôê mở mắt ra như thể nãy giờ không hề ngủ.
- Hình như đến rồi anh ạ, - Nôrikô nói.
- Đến rồi, - Naôê xác nhận và nhìn xuống phía dưới.
Những cánh đồng màu trắng rộng mênh mông được những vạch đen chia ra thành những hình chữ nhật đều đặn; những khu rừng và những con đường cắt ngang làm thành những hình kỷ hà bọc rắc rối. Trên nền trời màu xanh sáng, mặt trời mùa đông trôi lơ lửng như một quả cầu da cam.
- Hình như trời khá lạnh, - Nôrikô nhận xét.
- Ừ.
Chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh, mặt đất gần lại rất nhanh. Đã trông thấy rõ những con đường, những nếp nhà. Và đây là đường băng của phi trường rắc tuyết; những ngọn cây vút qua gần ngay một bên. Một khoảnh khắc sau, chiếc máy bay chạm đất, nẩy lên một chút, chạy dọc đường băng và dừng lại trước nhà ga.
Naôê rời ghế đứng dậy với tay lên giá lấy hai cái áo măng-tô của anh và của Nôrikô.
- Sắp ra khỏi máy bay phải xốc ngay cổ áo lên, - Naôê vừa nói vừa trao áo cho Nôrikô.
Khi Nôrikô bước từ thân máy bay ra cầu thang, một ngọn gió lạnh buốt phả vào mặt cô.
Trên tường nhà ga màu đen đều giữa cánh đồng trắng, có một cái biển sáng; nhiệt độ không khí là 5 độ dưới không, tốc độ của gió ba mét một giây.
- Đi cẩn thận, khéo trượt, - Naôê dặn.
Các hành khách chạy về phía ga, cổ rụt lại, người co ro vì gió lạnh. Naôê bước nhanh về phía trước, Nôrikô cố chạy theo cho kịp.
Quá năm giờ họ mới về đến khách sạn. Tòa nhà màu nâu dễ chịu và rất ấm cúng.
- Ông bà cần một phòng hai giường ạ? - Người tiếp tân ân cần hỏi họ.
Naôê điền vào tờ giấy thuê phòng và đề tên Nôrikô vào đấy.
Căn phòng ở tần thứ sáu. Dưới hai cửa sổ có một con đường đi qua, và ở bên kia đường là một tòa nhà lớn, dáng dấp nặng nề. Tuy bóng hoàng hôn đã khá dày đặc, trên các cửa sổ không thấy có ánh đèn. Những luồng sáng từ đèn pha của các xe hơi qua đường chiếu vào những đống tuyết hai bên đường.
- Kia có phải là những cây phong không? - Nôrikô đưa ngón tay chỉ mấy cây cao ở bên trái khách sạn.
- Ừ, phong đấy... Em mệt lắm phải không?
- Chẳng mệt chút nào.
Sau phiên trực, Nôrikô không được ngủ, vì còn phải chuẩn bị cho chuyến đi. Nhưng cô không cảm thấy mệt, không biết vì có Naôê bên cạnh hay chỉ vì đang nô nức với chuyến đi.
- Ta đi tắm rồi đi ăn tối.
- Thế anh không về nhà mẹ hôm nay à?
- Để sau.
Nôrikô lấy áo quần và đi vào buồng tắm. Còn Naôê ngồi đọc mấy tờ báo mới được để sẵn trong phòng trọ.
- Hay anh tắm trước? - Nôrikô đề nghị.
- Ta cùng tắm, - Naôê vừa đáp vừa đặt tờ báo xuống.
Khi họ đi xuống phòng ăn ở tầng bốn thì đã hơn bảy giờ. Ở đây cũng như ở phòng đợi của khách sạn, rất vắng - Mọi người đều ăn Tết ở nhà. Chỉ thấy có mấy tốp người không đông ngồi ở cuối phòng ăn, vả lại đó đều là những gia đình. Không khí hôm nay yên tĩnh và trang nghiêm.
Nôrikô lần đầu tiên được nếm thử những món ăn địa phương nấu bằng cua, tôm, awabi. Cô lại còn nảy ra cái ý muốn uống rượu, và xin Naôê gọi shisky và sôđa. Cô uống hết hai xuất, và bây giờ trong đầu cô có tiếng ong ong khe khẽ.
Về đến phòng, Nôrikô kéo kín rèm lại, và quay về phía Naôê, cô lại hỏi:
- Bây giờ anh về nhà mẹ chứ?
- Lẽ ra... - Naôê đã lên nằm trên giường từ khi về phòng. Bỗng nhiên anh vùng dậy.
- Tiêm hộ anh.
- Tiêm ạ?
Naôê lấy trong túi du lịch ra một hộp luộc kim và một ống thuốc rất nhỏ.
- Em tiêm dùm anh - anh nhờ một lần nữa.
- Nhưng đó là...
- Phải, đây là ma tuý. - Naôê tháo ca-vát và xắn tay áo lên.
- Để làm gì?
- Em biết rồi đấy.
Nôrikô bàng hoàng nhìn Naôê.
- Anh đau lắm... Đau lắm, em hiểu chưa?
Tay cầm cái ống thuốc, Nôrikô lo lắng nhìn Naôê.
- Anh làm sao thế? Anh nói đi!
- Em đừng sợ. Tiêm nhanh lên. Naôê chìa cánh tay ra: có thể sẽ thấy rõ những vết tiêm thâm thâm.
Mái tóc Nôrikô xòa tung trên chiếc gối, dưới ánh đèn ngủ dìu dịu, những giọt mồ hôi nhỏ li ti lấp lánh trên trán. Mọi vật đều lịm đi trong cảnh bất động. Không có lấy một tiếng động, ngoài tiếng vo vo rất khẽ của máy điều hòa không khí. Naôê và Nôrikô nằm yên như một đôi chim mỏi cánh; ngay đến tiếng thở của họ cũng không thể nghe thấy được...
Nôrikô mở mắt. Cô thấy bải hoải khắp người. Naôê đang ngủ rất say. Khẽ nhấc cánh tay của anh đang đặt trên ngực, Nôrikô xuống giường và mặc pyjama vào.
Mười một giờ. Chưa khuya lắm, nhưng khách sạn đã chìm trong bóng tối. Nôrikô ra cửa sổ, vén rèm ra một chút.
Tuyết... Trời hãy còn trong khi họ rời phòng ăn trở về buồng. Như vậy tức là khi họ đã đi ngủ rồi thì trời mới bắt đầu đổ tuyết..
Nôrikô đưa ngón tay trỏ chầm chậm trên tấm kính lạnh, và cảm giác mát rượi trên đầu ngón tay làm cho cô thích thú. Những bông tuyết từ trên bầu trời đen rơi xuống dần dần hòa tan trong cái bóng đêm; và chỉ có xung quanh những ngọn đèn trong cái vòng sáng ấy mới trong thấy những bông tuyết quay cuồng trong một vũ điệu rắc rối cầu kỳ. Tĩnh mịch. Thỉnh thoảng mới nghe một tiếng phanh rít, rồi sau đó một sự tĩnh mịch đến phát sợ lại bao trùm lên mọi vật. Chốc chốc, bóng một người đi đường cô độc lại hiện ra trong khoảnh khắc rồi mất hút ngay trong màn đêm.
Tối hôm ấy rốt cục Naôê không về nhà mẹ. Nôrikô nghĩ rằng anh làm như vậy là không phải, nhưng rồi lại quên ngay ý nghĩ ấy đi. Cô đang quá bận tâm vì những ý nghĩ khác.
Thêm một chiếc xe nữa đi qua, hoàn toàn không có tiếng động. Chắc vì là xe đi trên tuyết. Không một hơi gió. Tuyết rơi chậm rãi từng bông mềm. Đến sáng sẽ có những đống tuyết dày. Thành phố đang ngủ yên dưới màn tuyết. Vương quốc của giấc ngủ... Một vương quốc chết ...
Nôrikô thở dài, kéo kín rèm lại và đi vào buồng tắm.
Nôrikô, theo thói quen, dậy rất sớm, lúc tám giờ. Naôê hãy còn ngủ. Rất khẽ, để đừng làm cho Naôê tỉnh giấc, có trườn ra khỏi chăn và đi ra cửa sổ. Những ngôi nhà ở trước mặt đỏ rực lên vì ánh bình minh nhưng mọi vất ở chung quanh đều trắng xoá. Tuyết phủ trên các cảnh những cây phong mọc trên sân phủ tổng đốc - tòa nhà mà hôm qua Nôrikô trông như một tảnh đá lớn tối om; tuyết phủ lên những cây thông đã được những bàn tay ân cần bọc chiếu lại, tuyết lấp lánh trên các mái nhà, và ngay cả những cột đèn tín hiệu ở các ngã tư cũng đội những mảng tuyết nho nhỏ. Chỉ có lớp nhựa đường trên đó xe hơi qua lại là có màu xám thẫm; hình như lúc bình minh người ta đã rửa sạch đường sá. Mấy người bộ hành đi đâu sớm bước vội vã, miệng phà ra những đám hơi mờ mờ.
Naôê dậy lúc mười giờ. Tác dụng của mũi tiêm đã hết, nhưng mặt anh vẫn xanh nhợt nhạt, mắt thâm quầng.
Họ ăn sáng trong buồng.
- Hôm nay thì thế nào anh cũng phải về thăm mẹ, - Nôrikô nói, giọng trách móc.
- Được rồi, được rồi, - Naôê gật đầu, mắt không rời tờ báo.
Nôrikô cũng chẳng hiểu được anh có định đi hay không.
Ăn sáng xong, Naôê tắm. Trong khi mặc áo quần, anh nói:
- Anh về thăm nhà, đến tối anh quay lại.
- Có lẽ anh nên ở lại đêm nay thì hơn. - Nôrikô gợi ý một cách rụt rè.
- Không, tối anh sẽ quay về đây.
- Anh chịu khó cho mẹ vui. Anh từ xa về, mẹ mong anh từ lâu. Còn em thì anh đừng lo. Hôm nay các nhà hàng đã bắt đầu làm việc, em chẳng phải ngồi buồn đâu ...
- Đến tối anh quay về.
- Anh lạ thật đấy.
Naôê quay về sau năm giờ chiều, như đã hứa. Nôrikô cũng vừa mới về khách sạn khi đi mua găng tay và giầy ấm.
- Mẹ có khỏe không anh?
- Khoẻ.
- Mẹ có giữ anh ngủ lại không?
- Để một lần khác.
- Em ngượng quá... Chỉ vì em...
- Không phải vì em, - Naôê cắt ngang.
Anh cởi áo ngoài, ngồi xuống cạnh Naôê và nói:
- Mai ta đi chơi hồ Sikôtsu nhé?
- Đi đâu? Chơi hồ à?
- Ừ. Cách đây không xa, đi xe mất nửa tiếng. Một cái hồ yên tĩnh, tuyệt vời, chỉ có vùng Bắc mới có những cái hồ như vậỵ
- Nhưng chắc nó đóng băng rồi còn gì? Dưới lớp băng sẽ chẳng trông thấy gì đâu nhỉ?
- Không. Hồ này không đóng băng.
- Thế mình ngủ lại ở đâu?
- Ở đấy phải có một khách sạn tử tế.
- Em rất thích, nhưng...
Nôrikô rất muốn đi, nhưng cái ấn tượng là mình có lỗi đối với gia đình Naôê dày vò cô.
Ngày hôm ấy cũng vậy, tuyết dường như chỉ đợi đến tối: trời vưa bắt đầu tối là nó đổ xuống dày đặc, không lúc nào ngớt. Trời khá ấm cho nên tuyết rơi từng bông rất lớn, như những miếng bông gòn.
Ra khỏi khách sạn, Naôê và Nôrikô lập tức vướng vào một màn tuyết trắng.
- Khi tuyết rơi bao giờ cũng ấm hơn, - Naôê nói.
Quả nhiên trời ấm thật, gần như ở Tôkyô.
Các cửa hàng đã mở cửa, và ban ngày người ra vào khá đông, nhưng đến tối còn đóng cửa sớm hơn ngày thường.
Nhộn nhịp nhất trong thành phố là khu Susukinô, nơi thanh niên thường đến giải trí. Nhưng vào những ngày này ở đây cũng chỉ có mấy quan bar mở cửa, chứ phần lớn những nơi giải trí đều đóng cửa; những cành thông bên cửa ra vào và những dòng chữ chúc tết sặc sỡ nhắc người ta nhớ đến ngày tết.
Nôrikô và Naôê tìm được một quán ăn nhỏ chuyên dọn các món cá. Khách ăn rất ít; ba người đầu bếp vẻ mặt chán chường, đang ngồi xem ti-vi.
Khi Naôê vào Nôrikô ăn xong và ra đường, tuyết rơi càng dày hơn.
- Ta đi bộ đến khách sạn, anh nhỉ?
- Xa lắm.
- Không sao, em muốn đi bộ xa xa một chút! - Nôrikô cãi.
Cô ngửa mặt lên đón lấy những bông tuyết. Trên đôi má ấp áp của cô, những bông tuyết ấy tan đi, biến thành những giọt nước và chảy xuống cổ. Tuyết, tuyết, đâu đâu cũng tuyết - trên bầu trời, trong không khí, trên mặt đất. Tuyết tràn đầy cả thế gian, phủ kín nó lại: cách bốn bước đã không trông thấy gì, người qua lại chỉ là những cái bóng mờ mờ.
Họ đã đi quá Minami-Ichiđzyô, và bước ra một đại lộ rộng rãi. Hai bên đường mở ra những cái khung đen của cửa sổ nhà hàng, quán bar và hiệu ăn. Ánh đèn của những chiếc xe đi qua trượt dài trên tuyết. Lác đác có một cái cây bên vệ đường hay là một tấm cửa xếp của một nhà hàng vẽ thành một vệ tối; còn lại là vương quốc trắng của tuyết.
Nôrikô nép vào người Naôê, đút tay vào túi áo măng-tô của anh. Họ trôi giạt trên đại dương của tuyết, và màn tuyết đang rơi xuống tách họ ra khỏi thế gian: khỏi những đường phố, những ngôi nhà, những dãy núi mà hôm qua họ đã bay qua, khỏi cái sân bay vắng vẻ...
- Tuyết dày quá... Thế này mà mai mình vẫn đi chơi hồ sao?
- Em đừng sợ. - Naôê siết tay Nôrikô.
- Em không sợ đâu. - Nôrikô hoàn toàn phó thác mình cho Naôê.
Xa xa có một cái gì sáng hẳn lên; tưởng chừng như chỉ có ở đấy còn giữ được sự sống. Đi được mấy thước, họ bỗng thấy mình đứng trước thềm khách sạn.
Sau khi rũ hết tuyết, họ bước vào một thế giới khác- thế giới của hơi ấm và ánh sáng. Trên thang máy, những bông tuyết còn bám vào họ tan hẳn.
- Em mệt không?
- Không.
- Ta xuống bar nhé?
Nôrikô ưng thuận, tuy cô chẳng muốn đi đâu. Thời tiết này ở lại với Naôê trong phòng dễ chịu hơn nhiều.
Như đọc được ý nghĩ của cô, Naôê ngả lưng xuống giường.
- Có lẽ ngủ thì hơn.
Nôrikô chợt nhớ ra rằng ban chiều cô định nói cái gì đó với Naôê, nhưng cảm thấy hai tay anh ôm lấy mình, cô lại quên hết mọi sự trên đời.
Sáng hôm sau họ ăn sáng ở phòng ăn ở khách sạn, sau đó họ ghé vào cửa hàng tạp hóa và đến hai giờ thì lên tắc-xi ra khỏi thành phố.
Tuyết lấp lánh dưới ánh nắng, chói cả mắt.
Xe họ đi qua phi cảng Títôsê và rẽ về phía hồ Sikôtsụ Nôrikô kinh ngạc: con đường này, thẳng tắp như mũi tên, hai bên chạy dài những đống tuyết cao, - đêm qua cô đã trông thấy trong giấc mơ.
Bên phải và bên trái đều là rừng: toàn những cây lớn, những cây thông, những cây tùng. Giữa cái hoang mạc trắng xóa, màu xanh của rừng cây thật vui mắt.
Họ dừng lại ở một khách sạn xây trên đỉnh một ngọn đồi không cao lắm. Đứng bên cửa sổ có thể bao quát được một cảnh đẹp tuyệt vời - qua đám cành trụi lá của những cây sồi, những cây bạch dương, những cây phong, có thể trong thấy mặt hồ màu sẫm lặng ngắt trong khí lạnh mùa đông.
Một cô hầu phòng bước vào, dùng vỏ bạch dương nhóm lò sưởi lên. Ngọn lửa chập chờn nhảy múa, mấy súc củi lớn đỏ rực phát ra những tiếng nổ lách tách tươi vui.
- Sắp tối rồi, - Nôrikô thở dài.
- Xuống hồ đi lối nào? - Naôê hỏi cô hầu phòng.
- Xuống dốc rồi rẽ sang phải, - cô ta vừa giảng giải vừa ném thêm vào lò mấy súc củi nữa.
Lối đi xuống hồ là một con đường mòn hẹp. Naôê và Nôrikô đi xuống đồi và ra bờ hồ.
Nhìn gần, hồ khác hẳn lúc đứng bên cửa sổ khách sạn nhìn rạ Mặt hồ gợn lên những làn sóng lăn tăn trông như làm bằng chì, mờ mờ ánh lên.
Hồ này có một nguồn góc hỏa diệm sơn: Xưa kia địa chấn đã làm hình thành một cái cực rất sâu, và nước đã tràn đầy cái vực ấy. Xung quanh chen chúc những ngọn núi cao. Đây đó trên những sườn dốc đứng, mấy khóm thông vẽ thành những vệt tối sẫm.
- Xa xa kia là ngọn núi lửa Tarumaê, còn kia là ngọn Futsubusi, - Naôê giảng giải, chốc chốc lại hắt đầu cho những món tóc bị gió thổi rũ xuống trán khỏi vướng.
Nôrikô nhìn theo hướng Naôê chỉ. Bên trái, ngọn núi lửa Tarumaê uy nghi vươn cao trên nền trời, đỉnh núi bốc khói, phía đối diện là hòn núi đá Futsubusi trơ trọi dựng thành một khối đen ngòm. Những ngọn núi này ở tận xa, bên kia bờ hồ; vầng tà dương đang khuất dần sau những ngọn núi ấy, nhuộm bầu trời thành màu huyết dụ.
Hai người đi trên con đường mòn dẫn xuống bến.
Cách đấy khoảng hai mươi thước, cái khách sạn nhỏ đứng lẻ loi một mình. Hôm nay đã có người đi xuống bờ hồ: trên tuyết còn lại một chuỗi dài những vết giầy đi xuống đến mép nước thì hết.
- Không thấy bóng dáng một sinh linh nào, - Nôrikô nói thì thầm.
Một ngọn gió giá băng vật vờ thổi trên mặt hồ. Hai con người nhỏ bé đứng trên bờ nhìn xuống vực thẩm giá lan. Im lìm... Bất động... Chỉ có gió thổi vào mặt rát bỏng.
- Ở đây ảm đạm quá...- Nôrikô rùng mình. Cô mường tượng như có một cái gì chuyển động. Không đó chỉ là tiếng ngân của im lặng.
- Hồ rất sâu. Và rất đáng sợ, nhất là khi có bão, - Naôê nóị
- Mà nước bây giờ chắc lạnh như băng ...
- Trước kia ở đây đã có mấy lần có người chết đuối, nhưng chưa bao giờ có ai trông thấy xác họ nổi lên.
- Tại sao?
- Thuở trước, khi hình thành vực thẳm, lớp đất đã sụp xuống đáy cùng với cây cối.
- Như vậy tức là đáy hồ có cả một rừng cây?
- Đúng. Cái xác chìm xuống vướng vào các cành cây nên không thể nổi lên được nữa.
- Thế thì người ta chưa tìm được người nào cả?
- Chưa.



CHƯƠNG KẾT



Với một nỗi kinh hoàng không sao hiểu được, Nôrikô nhìn đăm đăm xuống mặt hồ gợn sóng lăn tăn. Nước hồ này phủ lên bao nhiêu người... Ở một nơi nào đó, dưới đáy hồ kia, có những thây ma rữa nát, ghê sợ...
- Em sợ... - Nôrikô dấu mặt vào ngực Naôê. Cô cảm thấy hồ nước đang gọi cô, thu hút cô. Không, đừng nhìn hồ nữa còn hơn! - Ta đi đi anh...
Naôê gật đầu, nhưng mắt anh vẫn không sao rứt ra khỏi mặt hồ.
Bỗng phía sau có tiếng xao xác. Nôrikô nhìn là và trông thấy một đàn quạ rất đông bay từ khu rừng về phía núi Futsubusi. Đàn quạ nhỏ dần, rồi thu lại thành một chấm đen và mất hút trong những tảng đá mà ánh tà dương đã nhuộm thành màu huyết dụ.
Nôrikô và Naôê đưa mắt nhìn nhau, và không nói nửa lời, cùng quay về.
Về đến khách sạn họ ngồi xuống ăn bữa tốị Đêm đã xuống hẳn. Ngòai cửa sổ, sân khách sạn hiên lên mờ mờ , và bên kia sân là một vùng bóng tối vô biên. Không trông thấy hồ.
Naôê nhìn Nôrikô.
- Em sao thế?
- Không...
- Ta uống tí rượu nhé?
- Má em nóng quá... - Nôrikô áp hai lòng bàn tay lên mặt.
Naôê lặng lẽ uống sakê. Rồi với một vẻ mặt buồn buồn rất lạ anh nhìn Nôrikô.
- Mai em về chứ? - Anh hỏi.
- Thế thì sao ạ, có cần không?
- Từ ngày mai anh sẽ ở nhà mẹ.
- Phải, đúng đấy...
Quả đúng như vậy, chứ chẳng lẽ lại ở mãi đây, trên đảo Hôkkaiđô này. Naôê đã gọi, và Nôrikô đã đi theo anh, vậy thì kế theo phải làm đúng như anh nói. Dĩ nhiên anh ấy cần ở lại nhà ít hôm với mẹ.
- Vậy mai em sẽ về Tôkyô.
- Ngày mai mới mồng ba, đến mồng bảy em mới phải làm việc. Còn lại ba ngày. Em về sớm mà nghỉ cho thật khoẻ ...
- Vâng-vâng, dĩ nhiên.
- Tốt nhất mà anh đưa em đến cái nơi vắng vẻ này ...
- Ồ, anh nói gì thế, em thích lắm mà!
- Em không quên chuyến đi này chứ?
- Không bao giờ!
Naôê nhìn vào mắt Nôrikô. Tại sao trong khóe nhìn của anh lại âu yếm đến như vậy?
- Tiên sinh, thế bao giờ anh về?
- Anh sẽ ở đây mấy ngày nữa.
- Chắc vừa rồi em làm phiền anh... Anh về với mẹ ít hôm đi.
Naôê uống nốt ly sakê và hỏi:
- Em không muốn nói gì với anh trước khi ra về sao?
- Em ấy à?
- Em.
- Nhưng chỉ ít hôm nữa... - Nôrikô ngạc nhiên "Không thể hiểu được. Chỉ mấy hôm nữa lại sẽ gặp nhau mà".
- Nếu em muốn nói gì thì nói bây giờ đi.
Quả Nôrikô có một cái gì để nói. Đêm qua cô chưa nói được.
- Em định nói..
- Cái gì?
Nôrikô cụp mắt xuống.
- Em... Em đã có...
- Em đã có thai ư?
Nôrikô im lặng gật đầu.
Naôê mân mê cái chén trong tay một hồi lâu. Rồi anh nốc một hơi cạn chén rượu.
- Em không sanh nữa cũng được... - Nôrikô cụp mắt xuống. - "Tại sao mình lại nói như vậy? Anh ấy đã trả lời gì đâu".
- Em không muốn ư?
- Thì vì... - Nôrikô mở đầu, nhưng rồi nghẹn lại không biết nói tiếp như thế nào.
- Anh muốn em biết điều này: anh không có ý lấy vợ. Không lấy ai cả... Nhưng nếu chúng mình sẽ có con thì anh sẽ làm cho em tất cả những gì anh có thể làm được. - Vậy thì anh cho phép em sinh nó?
- Anh muốn như thế.
- Thật ư?! - Nôrikô không sao trấn áp được niềm xúc cảm đột nhiên làm cho cô run bắn lên. Cô nhắm mắt lại. Vừa qua chẳng có gì xảy ra cả, nhưng không hiểu sao nước mắt cứ trào ra trên má cô.
- Em đừng khóc... - Naôê đến sát Nôrikô từ phía sau âu yếm ôm lấy cô. - Sao em lại khóc?
- Vì em mừng quá.
Mấy ngón tay dài và mảnh của Naôê vuốt lên tóc cô.
Nôrikô ngẩng lên, khuôn mặt đầm đìa nước mắt.
- Em xin anh một điều.
- Điều gì vậy?
- Xin anh đừng dùng ma túy nữa. Được không anh? Bà y tá trưởng và ông bác sĩ trưởng đang nghi anh đấy.
- À, ra em muốn nói chuyện ấy... - Một nụ cười thoáng hiện trên gương mặt Naôê.
- Anh sẽ không dùng nữa nhé? Đừng nhé?
- Anh sẽ không dùng nữa.
Vẫn mỉm cười, Naôê nhìn vào bóng đêm ngoài cửa sổ.
* * *


Trong ba ngày tết Yutarô ở nhà, như một ông chủ gia đình nề nếp. Quả tình ông luôn luôn có khách - khách từ Hội lương y đến, khách trong Hội đồng thị chính, bạn đồng nghiệp. Khách nào Yutarô cũng mời rượu, cho nên ông cũng chẳng có thì giờ đâu mà buồn chán. Nhưng dù sao thì ông cũng hầu như không ra khỏi nhà - nếu không kể cuộc thăm viếng đền Mêiđziđzingu là một bổn phận không thể xao nhãng và một vài cuộc thăm viếng tới nhà một số nhân vật có thế lực trong Hội đồng thị chính và trong Hội lương y.
Mãi đến ngày mồng bốn tháng giêng môi mới chuồn đi được, sau khi nói với Ritsukô là ông muốn ghé bệnh viện xem công việc ra sao.
Bệnh viện Oriental đã trở lại làm việc theo thời biểu bình thường, tuy chưa phải là tất cả mọi người đều đã trở về bệnh viện: những người phải trực đêm giao thừa đều được nghỉ đến mồng bảy tháng giêng.
Sau khi đã nắm chắc rằng mọi việc đều chạy và các bệnh nhân về nhà ăn tết đều đã trở vào bệnh viện, Yutarô chuẩn bị lên xe đi nơi khác.
- Về nhà ạ? - Nômura hỏi.
Yutarô suy nghĩ một chút rồi nói:
- Ta tạt vào đằng kia một chút.
Cả hai người đều hiểu. "Đằng kia" có nghĩa là khu Êbisu. Chừng hai mươi phút sau xe đỗ trước nhà Mayumi.
- Cám ơn. - Ra khỏi xe, Yutarô như thường lệ giúi cho Nômura một tờ một nghìn yên. Món tiền này không phải là ít, tiền đi tắc-xi còn ít hơn nhiều, nhưng Yutarô trả món này là để mua sự yên lặng. Ông sợ vợ ông hơn hết mọi thứ trên đời.
- Ghé đón tôi lúc năm giờ nhé, - Yutarô nói, mắt nhìn đồng hồ.
Mayumi đang ngồi nhà. Quán cà-phê cô làm việc mở cửa từ ngày mùng năm. Nhưng mãi sau ngày mùng bảy các cô phục vụ cũng như các khách quen mới đến đông đủ, và quán mới trở lại náo nhiệt như ngày thường.
Mayumi ăn Tết với mẹ ở Tachikawa, nhưng đến mùng ba tháng giên đã trở về nhà. Dĩ nhiên thỉnh thoảng cũng nên về thăm cha mẹ, nhưng cũng chỉ có thể kiên nhẫn chịu được hai ngày là cùng, đến ngày thứ ba thì chán đến tận óc.
-Papa! Em mong papa quá.
Yutarô chưa kịp đóng cửa phòng lại thì Mayumi đã hót lên cổ ông.
- Thật không?
- Chứ còn sao! Suốt mười ngày không thấy mặt mũi đâu!
Những lạc thú yêu đương chẳng mấy chốc đã làm cho Yutarô mệt nhừ.
- Ê, papa, dậy đi, ngủ mãi thế à! - Mayumi gọi giật giọng. - Chơi với papa chán bỏ xừ...
Yutarô uể oải nhổm dậy, ngồi lên đi-văng.
Trời đẹp tuyệt. Ánh nắng rực rỡ tràn vào ban công.
- Phải, tôi có chuyện muốn hỏi cô đây. - Yutarô lấy điếu thuốc lá. - Cô có gặp Mikikô đấy à?
- Còn em thì cứ nghĩ bụng không biết papa sẽ nói sao đây. - Mayumi cười khúc khích.
- Chẳng có gì mà cười cả. Cô gặp nó làm gì vậy?
- Thế Mikikô chưa nói với papa à? - Như thể không có gì xảy ra, Mayumi lấy ở trên bàn một miếng sô-cô-la bỏ vào mồm nhai. - Chẳng có gì dính dáng đến papa cả.
- Sao lại "không dính dáng"?! Con gái tôi mà lại gặp cô... Tôi nghe nói mà suýt té xỉu luôn.
- Sao, bà Ritsukô cũng biết à?
- Không. May phước lúc bấy giờ bà ấy không có nhà, nhưng tôi thì phát điên lên được!
- Vậy Mikikô kể thế nào? - Mayumi háo hức nhích sát vào Yutarô.
Ông đưa điếu thuốc lá lên miệng, đợi cho người ta quẹt diêm cho ông châm xong rồi mới nói:
- Ngày ba mươi tháng chạp tôi gọi nó vào phòng làm việc. Tôi bắt đầu nói chuyện nghiêm chỉnh với nó về chuyện chồng con. Nhưng nó chỉ làm thinh.
- Mỗi người đều có quyền giữ kín những chuyện thuộc đời tư của mình.
- Tôi mới mắng nó: "Năm tháng cứ qua đi mà mày không biết lo gì cả. Mày nghĩ đến cái gì thế?" Thế là nó vặn lại ngay: "Thế ba nghĩ gì khi ba hẹn hò với cô Mayumi?"
- Chết cười nhỉ!
- Tôi còn bụng dạ đâu mà cười! Tôi nghẹn họng không nói được nữa. Nhờ cô cả đấy... Bây giờ nói chuyện với con ruột cũng không nói được nữa.
Không sao nín được, Mayumi cười phá lên, đôi chân để trần khua lia lịa.
- Không, cô phải trả lời cho tôi đi, cô cần gặp nó để làm gì?
- Chúng em nói với nhau về bác sĩ Naôê.
- Cái gì-ì? - Yutarô giãy nảy lên. - Sao lại có cả Naôê vào đây?
- Nếu papa không biết thì em sẽ nói.
- Nào nói đi!
- Con gái papa mê ông ta tít thò lò.
- Mikikô ấy à?
- Papa chậm hiểu quá. Em đã nói với papa từ lâu mà: ở đây có một cái gì không ổn.
- Nhưng Naôê hơn nó đến hai mươi tuổi.
- Thì đã sao? Em đây chẳng hạn, em cũng thích những người đàn ông trạc tuổi Naôê.
- Chắc cô cũng mết ông ta rồi chứ gì?
- Rất có thể... - Mayumi rút điếu thuốc lá trong miệng Yutarô, rít một hơi và thở khói ra thành một cái vòng tròn.
- Thôi được... Nhưng tại sao cô lại kết luận rằng Mikikô yêu Naôê?
- Chính cô ta nói với em mà.
- Nó có quen em đâu.
- Thì có sao?
- Nó có đến đây à?
- Không. Chưa. Thế nào, kể tiếp nhé?
- Thôi đừng nhem thèm nữa.
- Thế papa có mua không nào?
- "Mua" cái gì?
- M-m-m... Cái áo lụa.
- Được-được, anh sẽ mua. Nào, có nói hay không thì bảo?!
Yutarô có cái vẻ của một con thú bị săn đuổi. Ông rút một điếu thuốc lá khác và lại châm hút.
Mayumi nhìn ông một cách ranh mãnh.
- Có một hôm em trông thấy Naôê đi chơi với một cô gái. Hôm ấy em còn nghĩ bụng: đẹp đôi quá! Hợp nhau đến thế là cùng... Em đoán được ngay đó là Mikikô. Quả tình nó chẳng giống papa chút nào, nó giống mama nhiều hơn, giống như đúc ấy. Ông anh em cũng có kể cho em nghe một vài điều. Papa ạ, em thế chứ chuyện gì em cũng biết đấy... Thế là em lập tức gọi điện cho Naôê - chẳng qua để nghịch cho vui. Em mới hỏi: "Cô gái đi chơi với ông là con gái của bác sĩ trưởng phải không?" Thế là ông ta liền kể cho em nghe hết. Theo em thì Mikikô còn đến nhà ông ta nữa kia, - Mayumi nói thêm, hướng câu chuyện về phía cái mục tiêu mà cô đã nhắm. - Anh em nói là cá cô y tá kháo nhau như vậy.
- Nhưng mà Naôê... đã có người yêu là Simura rồi kia mà.
- Chẳng có gì lạ. Một người đàn ông như thế thì đến mấy người yêu liền cũng có.
- Thôi đừng tán láo nữa. Anh chẳng tin lắm những chuyện em nói đâu.
- Không tin thì thôi. Nhưng bác sĩ Naôê là một tay sở khanh có tiếng. Nghe nói là giữa ông ta với Đzyunkô Hanađzyô cũng có chuyện gì đấy.
- Chả phải.
- Đúng đấy. Có papa lãng tai thì có!
Yutarô như thể bị ai giội nước lạnh.
- Bây giờ thì papa đã hiểu tại sao con gái papa trốn buổi xem mắt rồi chứ? Chẳng qua cô ta nhất định không chịu nghe nói đến ai khác cả!
- Ờ... Nghe cũng có lý, - cuối cùng Yutarô mới thừa nhận một cách miễn cưỡng.
- Chứ còn gì nữa! Một khi chính Mikikô đã nói...
- Ừ-ừ-ừ... Không biết đã đến mức nào rồi?
- Em cũng không biết nữa. Theo em thì cho đến nay họ vẫn chưa có con với nhau.
- Ê! Bỏ ngay cái lối đùa ấy đi! - Đôi mắt ti hí của Yutarô hình như chỉ chực bật ra ngoài.
- Papa có nhớ là có một hôm Mikikô không về nhà không? Có lẽ hôm ấy nó ở nhà Naôê đấy.
- Ban đêm ấy à?
- Chứ sao?
- Chính nó nói thế à?
- Không, không nói nhưng chuyện ấy không dấu được em đâu.
Yutarô hoảng hốt thực sự. Mayumi đắc thắng.
- Em cho là chuyện hai người khá nghiêm trọng, - cô kết luận, giọng hả hê.
- Đồ ngốc!
- Không muốn tin thì thôi.
Giá có thể khôgn tin thì Yutarô sẽ rất mừng, nhưng cái giọng của Mayumi làm cho ông bối rối.
- Dù sao tôi cũng không hiểu nổi nó nói với cô những chuyện gì...
Mayumi đun nước pha cà-phê.
- Cũng phải coi chừng chứ cái cô gì... à cô Nôrikô ấy... Cô ta có thể đánh ghen đấy.
- Nhưng anh có hề nghe gì đâu. Cả Ritsukô cũng chẳng nói gì với anh, - Yutarô rên rỉ.
- Làm bố mẹ mà chẳng biết con cái sống ra sao.
- Xì, "chẳng biết" với lại "chẳng hay". Dù có hỏi chúng nó cũng có nói khố.
- Trong nhà papa chẳng ai nói với ai gì mấy nhỉ.
- Lẽ ra nó phải nói thật: "Con yêu Naôê..."
- Cứ thử tưởng tượng lúc bấy giờ papa sẽ trả lời ra sao.
- Sao lại ra sao? Naôê là một bác sĩ giỏi và là một người tốt.
- Ừ, cứ cho là như thế, - Mayumi nhún vai nói. - Cứ cho họ lấy nhau đi thì đã sao? Simura thì nước non gì. Chỉ cần papa muốn...
- Không, như thế không được.
- Đứa con gái duy nhất phải lòng giai...
- Trước hết anh phải nói chuyện với Mikikô.
- Nhưng đừng có để hở ra là em nói đấy. Chứ không cô ấy sẽ thù em.
- Em đừng lo. Anh chẳng ngu đến thế.
- Kìa papa... Còn nếu Mikikô không muốn lấy ông ta thì để em lấy cho.
- Em? Lấy ai?
- Lấy Naôê chứ còn ai.
- Em thật quá quắt! - Yutarô cười hô hố. - Không xong đâu: ôgn ta biết rằng em là bồ của anh.
- Thì đã sao? Ông ta tán em mãi đấy.
- Ồ thôi, đừng bịa!
- Sao, papa không tin hả? Ông ấy thì ai ông cũng tán tuốt.
Yutarô vẫn chưa dứt trận cười.
- Và nhân thể cũng xin nói, - Mayumi tiếp, - đối với vợ ai đó ông ta cũng có ý đồ.
- Vợ ai?
- Vợ papa chứ còn ai! Ritsukô phu nhân ấy.
- Thôi đủ rồi!
Đến nước này thì Yutarô không sao chịu nổi nữa. Mặt ông đỏ gay lên như con cua luộc, và mắt ông quắc lên nhìn Mayumi trừng trừng. Mayumi vẫn điềm nhiên nói nốt:
- Kìa việc gì papa phải giận dữ thế? Naôê thì muốn bao nhiêu đàn bà mà chẳng có... Xét cho cùng nếu vợ papa có hạ cố để ông ta lọt vào mắt xanh thì cũng chẳng có gì đáng trách.
Mayumi bỏ vào chén một miếng đường và thong thả khuấy.
Phải, Yutarô có lý do để tực giận: ông nhớ ra rằng thời gian gần đây chỉ cần có ai nhắc đến Naôê một cái là mắt Ritsukô sáng lên và bà cứ sôi nổi lên đến mức không còn nhận ra được nữa.
- Ông ta kỳ lạ thế nào ấy. - Uống hết cà-phê Mayumi châm thuốc hút, - Ông ta nghiên cứu cái cột sống của mình...
- Để làm gì?
- Sao, cả chuyện ấy papa cũng không biết à? Ông ta cho chụp X-quang mỗi tháng mấy lần.
- Sao em biết được chuyện đó?
- Anh em nói.
"Nếu là Sawađa nói thì chắc là đúng..." - Yutarô nghĩ thầm rồi nói:
- Lần đầu anh nghe thấy đấy.
- Lại còn chuyện này nữa.
- Lại còn chuyện gì?
- Ông ta rủ đàn bà về nhà... tiêm ma túy.
- Hừm... - Yutarô nhớ lại rằng cách đây nửa tháng bà y tá trưởng có gặp ông than phiền rằng bác sĩ Naôê sử dụng quá nhiều ma túy.
- Chính em trông thấy à?
- Không... Nhưng gần đây em có đến gặp ông để khám bệnh, trông ông ấy sợ lắm: mắt đục ngầu, trống hoắc. - Mayumi đã tránh được một đề tài nguy hiểm.
- Vào lúc nào thế? Ban ngày à?
- Dĩ nhiên. Em đến bệnh viện là đến ban ngày, chứ còn đến vào lúc nào được?
"Khoảng thấy Sêkiguchi nói chuyện này. Nhưng nếu Mayumi nói đúng và Naôê nghiện ma túy thật thì sao? - Yutarô đâm hoảng. - Nếu quả như vậy thì phải có cách: đây là việc hình sự rồi..."
- Không biết tại sao ông ta lại đổi trường đại học lấy một bệnh viện tư vớ vẩn nào đấy?
- "Bệnh viện tư vớ vẩn" là thế nào?
- Chứ sao? Lẽ ra ông ấy có thể chọn một chỗ nào đàng hoàng hơn.
Thật ra chính Yutarô cũng thấy việc ấy là kỳ lạ. Thế mà bây giờ lại thêm những tin tức như thế kia...
- Giá ở địa vị papa em sẽ theo dõi ông ta kỹ hơn, - Mayumi khuyên.
- Ở trường đại học người ta đánh giá phẩm cách của Naôê rất cao.
- Thế thì tại sao ông ta lại bỏ trường đại học mà đi?
- Anh nhận ông ta theo lời giới thiệu của bác sĩ Iidzilo - một người bạn của anh trong ban quản trị Hội lương y.
- Vậy papa thử hỏi ông bạn ấy xem sao.
- Ông ta bỏ trường đại học ra đi thì việc gì tôi lại phải biết rõ lý do! Miễn là ở bệnh viện của tôi ông ta làm việc tốt. Ông ta là một bác sĩ thượng thặng.
Yutarô nói rất quả quyết, mặc dầu mối ngờ vực đã len lõi vào lòng ông: "Quả là cần phải theo dõi Naôê sát hơn".
* * *


Mùng bảy tháng giêng ngày thứ hai. Sau một tuần nghỉ Tết, Nôrikô lại đến bệnh viện làm việc.
Những ngày hội hè đã kết thúc. Hôm nay mọi người đều tề tựu ở bệnh viện. Ông bác sĩ trưởng mời các nhân viên vào phòng làm việc và đọc một bài diễn văn. Ông chúc mừng năm mới rồi kêu gọi mọi người làm việc chăm chỉ hơn nữa. Để kết luân, ông tỏ ý mong muốn rằng mọi người sẽ có thái đô "quan tâm thường xuyên" đối với nhau.
Nôrikô nghe ông ta nói một cách lơ đãng. Chỉ có lúc ông ta nói đến sự quan tâm cô mới bất giác giật mình: có phải ông ta nghĩ đến Naôê không?
Từ ngày thứ hai bắt đầu những công việc bình thường, nhưng Naôê vẫn chưa thấy đến.
Sau một thời gian gián đoạn dài, công việc rất nhiều; từ sáng sớm trong phòng tiếp bệnh nhân ngoại trú đã đông nghịt.
Bà Sêkiguichi ghé mắt vào phòng các nữ y tá.
- Có ai biết bác sĩ Naôê hiện nay ở đâu không?
Bà ta hỏi mọi người, nhưng Nôrikô có cảm giác là bà ta hỏi chính mình.
- Bao nhiêu là bệnh nhân đang chờ, mà bác sĩ Kôbasi thì không thể ra khỏi các phòng nằm lấy một giây... Tôi cũng chẳng biết làm thế nào bây giờ, - bà Sêkiguchi càu nhàu.
Quả nhiên bác sĩ Kôbasi luôn luôn phải túc trực bên cạnh ông già Kôkichi Uênô. Anh mới ghé vào phòng họp một chút thì đã có một cô y tá chạy đến gọi anh về phòng bệnh nhân.
Kể từ mồng ba tháng giêng, Kôbasi, theo đúng lời khuyên của Naôê, đã chấm dứt việc truyền máu. Ngay tối hôm ấy Uênô bắt đầu sốt; trong hai ngày kế theo nhiệt độ tăng vọt lên, và đến ngày mùng sáu thì ngay từ sáng đã lên quá ba mươi tám độ. Da bệnh nhân lại vàng ra.
Đến chiều bệnh nhân bắt đầu sốt thực sự. Mặt ông đỏ bừng và ông thở một cách khó nhọc. Cái chết có thể đến bất cứ phút nào, như Naôê đã nói trước, trong ngày thứ năm sau khi thôi truyền máu.
"Có lẽ phải gọi điện đến nhà Naôê chăng?" - Nôrikô nghĩ. Cô có cảm giác là mọi người đều chờ đợi cô làm như vậy.
Naôê có nói rằng anh sẽ ở lại Sappôrô chừng hai ngày là cùng. Đến mồng bảy hay mồng tám anh sẽ trở lại đi làm. Hay là anh đã quyết định ở với mẹ thêm số ngày mà Nôrikô đã lấy mất của anh... bây giờ Nôrikô cứ tự trách mình là ích kỷ.
Bà Sêkiguchi lại dòm vào phòng y tá.
- Hình như bác sĩ Naôê về Hôkkaiđô nghĩ Tết có phải không? - Bây giờ bà ta hỏi thẳng Nôrikô.
- Vâng, tôi cũng có nghe như vậy...
- Tôi đã gọi điện đến nhà ông. Bà gác cổng nói rằng ông ấy chưa về.
- Có lẽ ông ấy có việc gì giữ lại ở Sappôrô?
- Nhưng ông ấy thừa biết là phải có mặt hôm nay!
Bản thân Nôrikô cũng đã mấy lần gọi điện cho Naôê, nhưng không có kết quả. Thành thử những lời bà y tá trưởng nói không hề làm cho cô ngạc nhiên chút nào, nhưng không hiểu tại sao nghe bà nói, cô vẫn thấy lo sợ.
- Có lẽ ông ấy định đi chuyến máy bay buổi sáng chắng? Rồi từ phi trường về thẳng đây? - Bà Sêkiguchi phỏng đoán.
- Phải, phải dĩ nhiên là như thế, - Nôrikô lúng búng. - Dù sao, nếu định về chậm ôgn ấy cũng phải báo trước.
- Mong sao ông ấy về cho sớm...
Từ phòng ngoại trú cứ năm phút lại có điện gọi lên hỏi xem Naôê đã đến chưa. Kôbasi không thể tiếp bệnh nhân được, vì buổi đi thăm bệnh nhân chưa kết thúc, mà cũng khôgn thể rời cụ Uênô lâu được.
Ngoài của có tiếng gót giầy lóc cóc, và Kawai chạy vào phòng.
- Bệnh nhân Uênô ra sao rồi? - Sêkiguchi hỏi.
- Lại sốt, - Kawai vừ trả lời vừa chạy vào, hối hả lấy cái gối oxy rồi chạy ra ngay.
- Lạ thật. Rất lạ... - Sêkiguchi băn khoăn nhắc đi nhắc lại và xem đồng hồ không biết đến lần thứ mấy.
Cảm nhận được ý trách móc, Nôrikô cúi đầu rửa mấy cái ống tiêm.
Mãi đến mười một giờ Kôbasi mới xuống phòng khám ngoại trú. Một số bệnh nhân đợi mãi không thấy bác sĩ đến đã ra về, nhưng vẫn còn khoảng ba mươi người kiên nhẫn ngồi lại ở phòng khám.
Kôbasi im lặng làm việc. Anh thấy giận Naôê kinh khủng, nhưng không nói ra, vì cho rằng làm như vậy là quá thấp hèn đối với phẩm giá của anh: nỗi công phẫn của anh chỉ được thể hiện bằng sự im lặng.
Nôrikô trực bên giường Uênô. Chỉ có một lần cô vắng mặt một phút để gọi điện cho Naôê, nhưng chỉ nghe những tiếng tuýt tuýt kéo dài.
"Chẳng lẽ lại tiêm ma túy rồi ngủ say quá không nghe chuông điện thoại hay sao?" Nỗi lo sợ lại tràn vào lòng cô. Nhưng anh ấy đã hứa là không dùng nữa. Cái đêm bên hồ bây giờ như một giấc mơ thần kỳ, và Naôê không thể nào tin được rằng tất cả những cảnh ấy đã diễn ra thật...
Hình như bác sĩ trưởng cũng đã được báo rằng Naôê không đến làm việc; ông bước vào phòng y tá, gắt: "Chả còn biết làm ăn thế nào với cái ông này!" - và ghé tai bà y tá trưởng nói thì thầm cái gì không rõ. Bà này ngơ ngác nhìn ông rồi đến tủ đựng phiếu bắt đàu giở xem tất cả các bệnh án bắt đầu từ chữ A.
Kôkichi Uênô mỗi l
ĐẾN TRANG
Thông Tin
Lượt Xem : 4111
Tác Giả : Sưa Tầm
GỬI BÌNH LUẬN