Không Kịp Nói Yêu Em
đến lúc thì quân kia đánh đến, hai người tốt hơn hết là nghỉ lại thị trấn một đêm, sáng sớm mai lên đường”.
Nghiêm Thế Xương hỏi: “Trong thành không phải có an dân đoàn sao?”. Ông chủ nói: “Nghe nói trên núi có một đồn trú quân của Dĩnh quân, cũng chỉ nghe nói như vậy, trong núi lớn như thế ai biết được quân binh nằm ở đâu”. Nghiêm Thế Xương trong lòng lo lắng, ôm bọc bánh ngô gói bằng lá cọ, bước thấp bước cao đi về bên cạnh Tĩnh Uyển, khẽ tiếng thương lượng với cô chốc lát, cuối cùng cảm thấy ở lại trong thị trấn càng nguy hiểm, họ vẫn quyết định đi thâu đêm.
Ai ngờ vào ban đêm mưa càng to, họ đi mấy cây số mà mưa như trút nước, ào ào từ trên trời đổ xuống, khiến người ta gần như không mở nổi mắt. Xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả tiếng côn trùng cũng bặt thinh, chỉ có tiếng mưa ào ào, bốn bề đen như mực, đen đến mức đặc quách như mực tàu. Tĩnh Uyển tuy sợ hãi nhưng cắn chặt môi không hé một tiếng. Chiếc đèn dầu trong tay Nghiêm Thế Xương chỉ chiếu sáng không quá một trượng, trong ánh sáng mờ trắng trắng, vô số hạt mưa dường như đập thẳng vào đèn. Anh biết không nên đi tiếp nên nói với Tĩnh Uyển: “Bây giờ cho dù quay lại thị trấn cũng rất nguy hiểm, tôi nhớ phía trước có một miếu Quan Đế, hay là tối nay tránh tạm ở đó, sáng mai lại lên đường”.
Tĩnh Uyển chỉ thấy áo ướt dính vào người lạnh thấu xương, ngay cả giọng nói cũng đang run rẩy: “Tôi nghe theo Nghiêm đại ca”. Họ lại đội mưa đi một lúc mới thấy một cái miếu nhỏ. Trong miếu đã không còn hòa thượng, vì khách qua đường vẫn hay thường dừng chân ở đây, nên trong miếu cũng khá sạch sẽ, Nghiêm Thế Xương đặt đèn xuống, tìm một nơi khô ráo cho Tĩnh Uyển ngồi. Tĩnh Uyển cởi áo mưa, chỉ thấy gió đêm thốc thẳng vào người, lại càng lạnh hơn. Nghiêm Thế Xương thấy bên tường có chất một ít cỏ khô, chần chừ một lát, nếu đốt lửa sẽ có người đến. Nhưng nhìn ánh đèn le lói hắt trên mặt Tĩnh Uyển, sắc mặt cô trắng bệch không còn chút máu, môi đã khô nẻ, toàn thân đang run lên, anh chỉ lo cô mặc quần áo ướt sẽ bị ốm, trong lòng nhem nhóm tia hi vọng, cảm thấy trời mưa to thế này, cho dù trong núi có Dĩnh quân chắc cũng không đội mưa đi tuần đêm. Anh bèn đem cỏ khô đến, đốt lên.
Tĩnh Uyển giật bắn mình, thấy sắc mặt anh tập trung cô cũng hơi căng thẳng. Cô cố nghe ngóng nhưng chỉ nghe thấy tiếng mưa rì rào trên cành lá bên ngoài miếu. Nghiêm Thế Xương bỗng quay người lại, lấy đất hất vào đống lửa, Tĩnh Uyển sực tỉnh, vội giúp anh lấy đất dập lửa. Ngọn lửa tắt ngấm, trong miếu bỗng chốc đen ngòm. Tĩnh Uyển chỉ nghe thấy tiếng thở nhẹ của Nghiêm Thế Xương, hai con lừa vốn cột ở giữa miếu lúc nầy có một con hắt hơi, trong lòng cô sợ hãi, lại nghe thấy Ngiêm Thế Xương gọi nhỏ: “Thặng Nhi?”. Thặng Nhi bất ngờ tỉnh giấc, chỉ nghe Nghiêm Thế Xương nói: “Cháu biết đường xuống núi không?”. Thặng Nhi nói nhỏ: “Biết”.
Tĩnh Uyển cố mở to mắt, qua lỗ dột trên mái nhà, ánh sáng xanh của màng đêm chiếu xiên xuống sàn, lúc lâu sau cô mới có thể lờ mờ nhìn ra hình bóng của Nghiêm Thế xương, anh lặng lẽ đứng ở đó nhưng cô nghe không ra bên ngoài có gì là không ổn. Anh bỗng đưa tay ra, nhét vật cứng vào tay cô, nói nhỏ: “Không kịp rồi không biết đối phương có kịp chặn cửa trước sau không, Cậu Sáu từng dạy tiểu thư cách bắn súng, khẩu súng này tiểu thư cầm phòng thân”.
Trong tay anh có một khẩu súng ngắn khác, trong bóng tối khẩu súng lóe lên ánh sáng ảm đạm, cô cực kỳ sợ hãi, cầm khẩu súng trên tay nặng đến nổi không cầm lên nổi. Lúc này dường như mới nghe thấy tiếng vó ngựa, bên ngoài càng lúc càng gần, tiếng vó ngựa hỗn loạn, rõ ràng không phải một người một ngựa, láng máng nghe thấy tiếng ngựa hí, hình như cả một đám người ngựa. Ba người họ đều căng thẳng đến cực điểm, yên lặng đến nín thở, nghe đám người ngựa càng lúc càng lại gần, trái tim Tĩnh Uyển như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bên ngoài có người nói: “Vừa nãy xa xa còn có ánh lửa giờ tắt rồi”, tiếp theo có người nói: “Vào trong xem”.
Cơ thể Tĩnh Uyển hơi run, cô nắm chặt khẩu súng trong tay, lòng bàn tay đã toát mồ hôi, nghe tiếng bước chân rầm rập xong vào, tiếp đó có người đá tung cửa miếu “rầm”một tiếng.
Mấy chiếc đèn dầu xông vào, luồng sáng đột ngột khiến Tĩnh Uyển không thể mở mắt, chỉ nghe thấy có người hỏi: “Là ai?bỏ súng xuống!”. Tiếp theo nghe thấy những âm thanh lạch cạch, là tiếng kéo cò súng, cô biết phản ứng vô hiệu nên chầm chậm bỏ súng xuống, ý nghĩ trong đầu lướt qua như điện xẹt: xong rồi!Cô sợ đến cực điểm, chỉ nghỉ nếu bị loạn binh làm nhục không bằng chết luôn ở đây. Đang trong lúc rất muốn chết, bỗng nghe thấy giọng của Nghiêm Thế Xương vang lên vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ mắng: “Chúc lão tam, cái thằng ranh con này! Hóa ra là mấy người! Làm ông mày sợ chết đi được!”.
Mô Dung Phong đang mơ màng ngủ, loáng thoáng hình như nghe thấy tiếng của Thẩm Gia Bình, nói rất nhỏ: “Cậu Sáu mới ngủ cả đêm không ngủ rồi, sáng mai lại phải đi xem bố phòng, đến bâu giờ mới tranh thủ đi chợp mắt”. Một giọng nói khác hình như của thư kí Uông Tử Kinh, có vẻ hơi chần chừ: “Vậy lát nũa tôi lại đến”. Trong chốc lát anh hoàn toàn tỉnh táo, ngoài trời âm u, tuy buổi chiều mà vẫn như vừa mới sáng, sắc trời một màu xanh xám, âm thanh như tiếng sấm rền từ bên ngoài văng vẳng truyền tới, âm thanh đó anh quá đỗi quen thuộc, biết không phải là tiếng sấm,mà là tiếng lửa đạn ở trận tuyến. Anh với lấy đồng hồ bên cạnh gối xem, mới ba giờ chiều hóa ra anh ngủ chưa được một tiếng, sự mệt mỏi không hề mất đi, ngược lại trong lòng trỗi dậy sự lo âu thấp thỏm.
Anh hỏi: “Ai bên ngoài thế?”.
Quả nhiên là Uông Tử Kinh nghe thấy tiếng anh hỏi vội vàng đi vào, anh đã xuống giường cầm chiếc khăn lạnh giá lau lau mặt, hỏi: “Có chuyện gì”. Uông Tử Kkinh cười nói: “Tin tốt lành, sư đoàn 9 và quân đoàn số 7, quân đoàn số 11 của Hộ Quốc quân đã hoàn thành bao vây, đội kỵ binh của chúng ta đã đến núi Nguyệt Hoàn, quân tiên phong của Hộ Quốc quân cũng đã đến cảng Khinh Xa, hai sư đoàn của Cao Bách Thuận của Dĩnh quân vẫn còn đang bị lừa”.
Mộ Dung Phong bỏ khăn mặt ra hỏi: “Tuyến đông thì sao?”
“Pháo binh của sư đoàn số 4 vẫn đang bị kìm chân”. Uông Tử Kinh nói rất ung dung, “Gần như sắp cho nổ tung Lịch Thàng thành một đám bùn đất, sư đoàn trưởng Tiền vừa gửi mật điện đến, báo đã đến vị trí được chỉ định, đợi rùa thò ra khỏi hang, để xả cơn giận mấy ngày vừa rồi”.
Mộ Dung Phong hừ một tiếng,nói: “Quân ta mất Dư Gia Khẩu không quá mười ngày, đám báo chí nước ngoài liền khua chân múa tay nói năng lung tung. Chúng còn dám trích dẫn binh pháp Tôn Tử, lần này ra diễn cho chúng xem vở kịch này, để chúng biết thế nào là binh pháp Tôn Tử”.
Mô Dung Phong đã dậy rồi nên giải quyết chút công việc quân, hành dinh tạm thời của anh đặt tại nơi đóng quân của Nam đại bản doanh, họp liền mấy tiếng mới xong. Tâm trạng Mộ Dung Phong rất tốt, cười nói với đám phụ tá: “Mấy ngày nay mọi người đều mệt, hôm nay tôi mời mọi người ăn cơm”. Ăn cơm trong quân đội cũng có nguyên tắc, mỗi người mỗi ngày một phần bao nhiêu, cho nên anh vừa nói mời khách, mấy viên thư kí rất mừng, vây quanh anh đi ra khỏi phòng. Trời đang tối dần vầng thái dương màu vàng xuộm đang dần lặn về phía tây, xa xa đã thấy một chiếc xe từ bản doanh chạy vào, cảnh vệ gác cổng đang dựng súng hành lễ.
Mộ Dung Phong tưởng là thống chế Giang Châu Hạ Phố Nghĩa đến, đến lúc nhận ra chiếc xe Lincoln màu đen vô cùng quen thuộc là xe của mình, trong lòng thấy lạ quay mặt lại hỏi cảnh vệ: “Ai đưa xe của tôi ra ngoài thế? Thẩm Gia Bình đâu?”. Cảnh vệ đó đáp: “Đội trưởng Thẩm nói có việc ra ngoài”. Mộ Dung Phong chuẩn bị giận dữ, chiếc xe đó dừng lại, một người bước xuống xe, đó là Thẩm Gia Bình, từ xa đã cười nói: “Cậu Sáu Doãn tiểu thư đến rồi”.
Mộ Dung Phong dường như nghe chưa rõ: “Cái gì”. Thẩm Gia Bình cười tươi roi rói, nói: “Doãn tiểu thư đến rồi”. Mộ Dung Phong chợt đứng đờ ra, chỉ thấy một cô gái trẻ xuống xe, tuy chỉ mặc quần áo vải bình thường, nhưng hình thức thướt tha đó quá đỗi quen thuộc, chính là Tĩnh Uyển. Một cô gái trẻ tuổi yếu đuối, chịu bao hoảng sợ và khổ cực, nhưng chỉ nhìn anh từ xa trong lòng đã không ngăn nổi vui mừng, giống như sắt gặp nam châm, sản sinh một lực hút không màng tất cả, khiến cô lao vế phía anh.
Mộ Dung Phong bước mấy bước xuống bậc thang, từ xa đã dang tay ra, cơ thể ấm mềm của cô lao vào lòng anh, cô ngẩng mặt lên nhìn anh, mắt ngấn lệ long lanh, nụ cười nở trên gương mặt, khóe miệng hơi run run, câu nói đó không sao nói ra nổi.
Anh ôm chặt lấy cô cảm giác như trong giấc mơ không chân thật, dường như chỉ có dùng tay ôm cô thật chặt như thế mới có thể tin rằng đây là sự thật. Anh đột nhiên kêu lớn một tiếng, ôm cô lên quay mấy vòng, đó là cảm giác vui mừng khôn xiết, không thể kìm chế được nữa, trái tim vui sướng như sắp nổ tung. Cô chỉ thấy trời đất quay cuồng, trời và đất quay vòng xung quanh, bên tai có tiếng ù ù, chỉ nghe thấy tiếng cười sang sảng của anh: “Tĩnh Uyển, anh vui quá, anh vui quá!”.
Anh trẻ tuổi dẫn đầu ba quân, bình thường trước mặt mọi người đều rất già dặn, lúc này vui mừng như điên, chợt bộc lộ hành động trẻ con, khiến cả đám thư kí và tham mưu có mặt đều sững sờ.
Nụ cười của Tĩnh Uyển từ trong tim tràn ra, lan đến khóe mắt đầu mày, anh cứ ôm chặt cô quay mấy vòng rồi mới đặt cô xuống. Giờ cô mới để ý đến những người đứng bên cạnh phía doanh trại, họ cùng cười mỉm nhìn cô và Mộ Dung Phong, cô nghĩ đến cảnh tượng đó đều bị người ta thấy hết thật xấu hổ,không kìm được đỏ bừng mặt. Mộ Dung Phong vẫn nắm chặt tay cô, bỗng anh nhớ ra điều gì, sầm mặt gọi: “Nghiêm Thế Xương”.
Sau khi xuống xe Nghiêm Thế Xương thấy hơi lo lo, nghe anh gọi tên mình, liền đi lên trước một bước: “Có”. Mộ Dung Phong đã nghĩ đến Tĩnh Uyển đã vất vã và gặp nguy hiểm trên đường, vừa đau lòng vừa lo lắng, định bụng hỏi tội Nghiêm Thế Xương: “Bỏ đi, cậu cũng vất vả rồi, đi nghỉ trước đi”.
Anh vẫn ăn cơm cùng mấy viên thư kí, cơm thịt cũng khá thịnh soạn, có điều trong quân đội không được uống rượu, hơn nữa đám thư kí này, có ai không là người từng trải? Họ vừa ăn vừa đưa mắt ra hiệu, ăn qua loa rồi thi nhau bỏ đũa xuống nói: “Cậu Sáu ăn ngon miệng”.
Mộ Dung Phong nói: “Sao mấy cậu ăn nhanh thế, tôi còn chưa ăn no”. Hà Tự An cười nói: “Cậu Sáu, xin lỗi, báo cáo quân sự của tiền tuyến vẫn chưa đọc, tôi phải đi trước rồi. Một tay thư kí riêng vỗ đầu nói: “Ôi chao, tối nay đến phiên tôi trực ban, phải đến phòng điện báo”. Còn một người nữa nói: “Lý thống chế đợi tôi trả lời điện báo”. Cứ như thế, mấy người đó kiếm cớ từ bỏ về hết.
Trong lòng Mộ Dung quả thật nhớ nhung Tĩnh Uyển, thấy thư kí đi hết cũng cảm thấy buồn cười. Mỗi tối đi ngủ anh đều đến phòng trực ban xem báo cáo chiến sự tiền tuyến một lát, lúc tình hình căng thẳng thường cả đêm không ngủ, nhưng hôm nay vì các thư kí ôm đồm hết việc, sắp xếp mọi thứ xong cả rồi, nên liền đi thăm Tĩnh Uyển.
Tĩnh Uyển vừa mới tắm rửa xong, cả chặn đường gió cát bụi bặm, không tiện tắm giặt, cô xưa nay thích sạch sẽ, đương nhiên thấy rất khó chịu. Đến đây cuối cùng cũng được tắm nước nóng, chẳng khác nào được lột xác, thế nên mặt mày phấn chấn. Đến quần áo để thay cô cũng không có, Thẩm Gia Bình đành tạm thời sai người đến thành Vĩnh Tân mua mấy bộ, có một chiếc sườn xám hải đường rất lớn mặc vào rộng thùng thình, tà áo dài chạm vào mu bàn chân, mặc lên người lại có dáng vẻ thướt tha kì lạ. Tóc cô vốn rất dài, lúc này gọi đầu xong xõa lên vai, giống như đám mây đen, cô dùng khăn lau khô, trên ngọn tóc còn vô số giọt nhỏ long lanh, dưới ánh đèn óng ánh như thủy tinh.
Vì vừa tắm xong nên má Tĩnh Uyển ửng hồng, thấy anh dò xét tỉ mỉ, cô ngượng ngùng giải thích, nói: “Không có máy sấy nên đành để tóc xõa như thế này”. Lúc cô nói hơi quay mặt đi, có mấy giọt nước rớt vào mu bàn tay anh, rồi khô đi rất nhanh, da trên tay co lại, căng lên từng phân. Anh trở nên không tự nhiên, quay mặt đi xem xét đồ đạt trong phòng. Tuy là bố trí chóng vánh nhưng ở gian ngoài có đặt một chiếc sofa nhung, khôngcó bàn trà. Đi vào bên trong một bên đặt một chiếc giường sơn trắng kiểu Tây, chăn gối trên giường đều là đồ mới, ngoài ra còn có một bàn trang điểm kiểu Tây có gương lớn. Trên bàn có đặt một bình hoa sứ nhỏ, bên trong cắm hoa cúc.
Trong hành dinh tất cả đều đơn sơ giản dị, bó lam càng cua màu trắng đó tuy không phải là loại quý hiếm, nhưng thanh khiết tươi đẹp, vô cùng bắt mắt. Ngày ngày những thứ anh nhìn thấy đều là bom đạn, căn phòng ngăn nắp thế này đem lại cảm giác thoải mái yên ổn đặc biệt của khuê phòng, bất giác khiến người ta nhẹ nhõm.
Anh nói : “Bây giờ hoa cúc đã nở rồi”. Anh dừng lại một lát rồi nói: “Lát nữa họ cũng đặt một bình như thế trong phòng anh”.Tĩnh Uyển tiện tay rút một cành hoa cúc ra, nói: “hoa này tuy đẹp nhưng đáng tiếc lại nở vào mùa thu”. Cô chỉ tùy tiện nói một câu như vậy, Mộ Dung Phong bỗng có chút không lành, nhưng lòng anh đang vui mừng nên hỏi sang chuyện khác: “Em đi đường thế nào, chắc nguy hiểm lắm hả?”.
Tĩnh Uyển sợ anh lo lắng nên nói: “Cũng ổn, suốt chặng đường đều rất thuận lợi, chỉ là lúc ở Hà Gia Bảo hơi sợ hãi một chút”. Mộ Dung Phong quả nhiên kinh ngạc vội hỏi: “Có bị thương chỗ nào không?”. Tĩnh Uyển lắc đầu ánh mắt đung đưa mĩm cười nói: “Nghiêm đại ca cũng không ngờ Cậu Sáu dùng binh như thần, kỵ binh của sư đoàn số 4 đội mưa hành quân đánh úp Dĩnh quân, suýt nữa coi ba người tụi em là gián điệp Dĩnh quân bắt đi xử bắn”.
Cô nói dí dỏm, lộ ra vẻ mặt trẻ con. Mộ Dung Phong cười nhìn cô, cảm thấy cả cơ thể cô như đang phát sáng, tỏ ra một ánh sáng đẹp đẽ, ngược lại hoàn toàn với dáng vẻ u ám của cô trước đây. Hai người tuy mới gặp nhau mười ngày trước, nhưng lần trùng phùng này họ cứ ngỡ như trong mơ. Giờ mới biết người xưa nói: “Nửa đêm soi mình vào gương, cứ ngỡ tương phùng trong giấc mộng” là như thế nào.
Hai người cứ ngồi như thế,không muốn nói gì, tuy không trò chuyện với nhau nhưng trong lòng có một niềm vui lắng dịu, dường như họ muốn nhìn nhau như thế,cho đến tận mãi mãi. Cuối cùng đêm đã khuya, anh đành đứng dậy nói: “Anh về trước mai gặp lại em”.
Tĩnh Uyển tiễn anh ra ngoài, tà áo sườn xám dài lướt trên chân, cô quên mặc đồ tây, chiếc sườn xám không vừa người như vậy, trên tà thêu mấy bông hải đường, hình thù quá đỗi bình thường nhưng lại toát lên vẻ đẹp cổ điển. Màu sắc tà áo tươi tắn, chính cô cũng cảm thấy màu đỏ rực rỡ đó ánh cả lên đôi gò má ửng hồng. Đôi dép hoa gấm dưới chân màu hồng cánh sen xen lẫn đường chỉ kim tuyến màu vàng nhạt, từng bước nở hoa. Đi đường xa như vậy cuối cùng được gặp anh, ngay cả đôi dép mới dưới chân cũng có cảm giác vững chãi chân thật, tuy tương lai vẫn không đoán trước được, nhưng cuối cùng gặp được anh, cô vẫn có cảm giác mừng rỡ không thể nói thành lời.
Anh dừng lại ở cửa, nói: “Anh đi đây”. Gần nhau như thế cơ thể anh có mùi xà bông thơm thơm, mùi thuốc lá khô hanh, kèm theo mùi thanh mát của bạc hà, mùi nồng nặc của khói súng, trong mắt anh chỉ có hình bóng cô, giống như mê hoặc giọng cô nho nhỏ: “Ngủ ngon”. Anh cũng đáp lại một tiếng: “Ngủ ngon”, cô thấy anh mở cửa liền lùi về hai bước, mắt nhìn tiễn anh ra ngoài.
Tay anh tựa vào cửa bỗng nhiên đẩy mạnh, chỉ nghe “cạch” một tiếng cửa đóng lại. Tĩnh Uyển chưa kịp phản ứng, nụ hôn của anh đã phủ xuống như trời đất ập xuống, vừa gấp vừa dày, cô không thở được, đành dùng tay nắm lấy cổ áo anh. Cô bất lực vùng vẫy giống như người sắp chết: “Không, không được…”. Nhưng anh không màng tất cả, anh không màng gì nửa, chỉ có cô là chân thật, là thứ anh khao khát từ lâu. Anh suýt nữa mất cô, nhưng đã đoạt lại như kì tích. Hơi thở anh gấp gáp phả vào tai cô, có cảm giác ngưa ngứa kì lạ, cơ thể cô ép chặt vào lòng anh, xung quanh đều là hơi thở của anh, tất cả đều bị anh đoạt mất.
Mùi hương hoa cúc nhè nhẹ, cả căn phòng ngào ngạt hương thơm thanh mát, anh nghĩ đến rượu hoa cúc, trong rượu mạnh như thế, hoa cúc Hoàng Sơn khô, thấm nước nở ra từng bông, xinh đẹp rực rỡ giống như cô lúc này, đang nở ra trong lòng anh.
Chương 20:
Báo cáo chiến sự cuối cùng của tiền tuyến đến vào buổi chiều. Sau khi Thừa quân giả vờ thất bại, Dĩnh quân quả nhiên trúng kế. Lúc này trải qua chiến đấu kịch liệt ngày đêm, Thừa quân đoạt lại Hà Gia Khẩu, công kích Tử Bình, Phụng Minh, còn tuyến Tây vừa tấn công Chương Đức, đoạt lại quyền khống chế đường sắt Thừa – Dĩnh. Dĩnh quân đã mất cửa ải Phụng Minh, đang lùi về sâu hơn mười cây số, lùi về trấn thủ tại Tấn Hoa, mà phòng tuyến phía sau Tấn Hoa là Phụ Thuận – thị trấn quân sự trọng yếu, Phụ Thuận là cửa ngõ của Càn Bình, cho nên trận đánh này đã làm lung lay gốc rễ của Dĩnh quân. Lập tức trong và ngoài nước chấn động, ngay cả chiến hạm nước ngoài cũng từ cảng Bắc Loan đi xuống phía Nam, tuần tiểu quan sát chiến cục từ xa.
Mô Dung Phong cầm báo cáo đại thắng, nhưng không hề mừng rỡ khôn xiết, vì lần này bố trí chu đáo trong thời gian dài, hơn nữa xiết hai gọng kiềm Đông Tây, cùng Hộ Quốc quân bao vây tiêu diệt, đương nhiên không thể thất bại. Các thư kí bận rộn sắp xếp các công việc như: tiếp nhận đầu hàng, bố trí tù binh, tước vũ khí, đoạt quân nhu…Tuy vẫn rất bận, nhưng trong sự bận rộn đó có sự ung dung đã được định liệu trước.
Mộ Dung Phong họp xong là quay về phòng làm việc của mình, vì báo cáo chiến sự phía Tây liên tục được chuyển đến, cho nên anh đến đó đọc trước. Hà Tự An tuy là thư kí riêng của anh, nhưng tham dự quân chính, cũng là một trợ tá quan trọng. Lúc này anh ta nghe thấy một việc quan trọng, nên đến gặp anh ngay, Hà Tự An có rất nhiều điều muốn nói, thấy Mộ Dung Phong cúi đầu chăm chú nhìn tờ bản đồ quân sự trải trên bàn liền gọi: “Cậu Sáu”.
Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng, không ngẩn đầu lên, Hà Tự An biết tính khí của anh ta, không dám nói thẳng từ xa đã nói lòng vòng: “Nếu chiến sự thuận lợi, muộn nhất là tháng sau quân ta sẽ chiếm Dĩnh Châu, lúc đó mười sáu tỉnh Giang Bắc đều lọt vào tay Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong ngẩn đầu lên nhìn anh ta một cái, nói: “Muốn nói gì thì nói đi”.
Hà Tự An nói: “Chẳng lẽ cậu Sáu định chia đôi giang sơn với chính phủ Xương Nghiệp, yên ổn với một nửa giang sơn?”
Mộ Dung Phong đáp: “Vĩnh Giang là nơi hiểm yếu khó vượt qua, hơn nữa đánh trận này nguyên khí của chúng ta phải cần một thời gian dài mới hồi phục được. Chính phủ Xương Nghiệp biết rõ điểm này mới mặc cả với tôi”. Anh dừng lại một lúc, nói tiếp: “Ngày đó ở Càn Bình lúc Trình Tín Chi thay mặt Trình gia đàm phán với tôi, tôi đã đồng ý với anh ta, sẽ tuân thủ lập hiến, công nhận chính phủ Xương Nghiệp, tiếp nhận quân hàm của chính phủ Xương Nghiệp. Biện pháp bề mặt đó, hát kịch vẫn phải hát cho đủ”.
Hà Tự An do dự nói: “Nếu Trình gia chịu ủng hộ Cậu Sáu, vậy nội các Xương Nghiệp có cũng như không”. Mộ Dung Phong cười nói: “Họ Trình ở Ủng Nam là gia tộc hào thương cự phú, Trình Doãn Chi lại quá láu cá, giỏi nhất là tính toán được mất, sao chịu bỏ Xương Nghiệp ủng hộ tôi?”.
Hà Tự An trong lòng có kế hoạch, nhưng xưa nay biết Mộ Dung Phong trẻ tuổi háo thắng, lại thích thể diện, luôn thích mềm mỏng không thích cứng rắn, cho nên lại chuyển đề tài hai người nói chuyện thời cuộc một lát, lại lan qua chuyện cung cấp vật tư thời nghị chiến. Hà Tự An đang dần dần nghĩ cách dẫn đến đề tài ấy, bỗng Thẩm Gia Bình gõ cửa đi vào, thì thầm với Mộ Dung Phong gì đó. Mộ Dung Phong liền hỏi: “Chuyện gì vậy?”. Thẩm Gia Bình lộ vẻ khó xử, Mộ Dung Phong biết rõ anh ta cũng chẳng có cách nào, đứng dậy lấy một quyển công văn trong tủ cầm trên tay nói: “Vậy tôi đi xem xem”.
Hà Tự An thấy thời cơ không ổn ,vội nói: “Cậu Sáu tôi vẫn còn lời muốn nói. Mộ Dung Phong đã vội vã ra đến cửa, quay đầu lại nhìn nói: “Đợi tôi quay lại rồi nói”. Hà Tự An đuổi theo mấy bước nói: “Cậu Sáu xin dừng chân, Tự An có mấy câu quan trọng muốn nói với cậu Sáu”. Mộ Dung Phong khua khua tay biểu thị anh về rồi hãy nói, người đã được cảnh vệ vây lấy đi rất xa. Hà Tự An đàng đứng tại đó, kéo Thẩm Gia Bình hỏi: “Có phải là Doãn tiểu thư có chuyện không?”. ThẩmGia Bình cười nói: “Cũng không hẳn”. Hà Tự An trong lòng có biết bao điều muốn nói, giờ thấy vậy đành thầm tính chuyện của mình.
Mộ Dung Phong đi vào phòng, thấy một chiếc hộp sơn đỏ đặt trên bàn trà, mấy món ăn bên trong còn nguyên chưa ai động đũa, cửa gian trong vẫn đóng kín. Anh đẩy cửa ra đi vào, chỉ thấy Tĩnh Uyển như lúc sáng, ôm đầu trong chăn, ngủ không nhúc nhích, tư thế hầu như kgông thay đổi. Anh rón rén lại gần, đến tận chiếc giường, đưa tay ra sờ trán cô, cô lại quay mặt đi trốn, anh cười nói: “Anh tưởng em ngủ đấy”. Cô coi như không nghe thấy, vẫn nằm ở đó, anh liền ngồi xuống một bên giường, đẩy cô nhè nhẹ: “Được rồi coi như anh sai, em cũng tức giận cả ngày rồi, chuyện khác không nói, nhưng cơm vẫn ăn chứ”.
Sống lưng cô cũng căng lên, cô vẫn không thèm để ý, anh yên lặng một lúc, nói: “Rốt cuộc là em không tin anh, vậy thần linh chứng giám, nếu anh phụ em thì tan xương nát thịt, chết chẳng yên lành”. Cô định không thèm để ý đến anh, nhưng quả thật không kìm được, lật mình ngồi dậy: “Người dẫn quân đánh giặc, sao không biết kiêng kỵ gì hết?”. Tuy khẩu khí vẫn còn lạnh nhạt, nhưng vẫn khiến Mộ Dung Phong cười: “Nếu em thật sự không để ý đến anh cả đời, anh thà chết đi còn hơn”.
Tĩnh Uyển tức giận nói: “Anh còn nói, anh còn nói”.
Anh lại tươi cười hớn hở: “Hóa ra em vẫn sợ anh chết”.
Tĩnh Uyển bị anh kích thích như thế, tức sôi máu, vênh mặt lên: “Ai sợ anh chết, cho dù anh chết vạn lần cũng không liên quan đến em”. Anh cười nói: “Anh không nỡ chết ấy, anh chết rồi em phải làm sao?”. Tĩnh Uyển hứ một tiếng nói: “Mặt dày, vô liêm sỉ”. Anh vẫn cười: “Đối với em anh thà vô liêm sỉ một chút”.
Anh thành thật thừa nhận như thế, thật khiến Tỉnh Uyển bất ngờ, sững sờ một lát, lúc sau mới nói: “Hừ không sợ người khác nghe thấy”. Anh ôm lấy eo cô, mỉm cười nói: “Ngoài em ra ai dám nghe chứ?”. Tĩnh Uyển cố kéo mặt ra, Mộ Dung Phong, nói: “Không chịu được thì cười đi. Sao cứ phải nhịn khổ sở như thế?”. Tĩnh Uyển liếc xéo anh một cái, nói: “Ai nói em muốn cười?”. Tuy nói như thế, nụ cười cũng dần ánh lên từ đáy đôi mắt, cô đẩy anh: “Tránh ra, nhìn anh là thấy ghét rồi”.
Mộ Dung Phong cười: “Anh bận như thế còn dành thời gian đến thăm em, em lại nói anh đáng ghét, anh sẽ để ghét cả đời đấy”. Tĩnh Uyển mắng: “Anh đừng xoen xoét cái miệng, em bực thật rồi đó”. Anh cười nói: “Anh nói nghiêm túc mà”. Anh đưa tập văn kiện cho cô xem, hóa ra là giấy chứng nhận kết hôn sao thành hai bản. Phía trên tên người làm chứng, người chủ hôn đã có chữ kí, dùng con dấu riêng họ đều là tướng lĩnh cao tiền bối đức cao vọng trọng trong thành Vĩnh Tân, phía dưới tên người đàn ông, anh cũng đã kí tên đóng dấu, chỉ có phần tên của người phụ nữ là để trống.
Đầu ngón tay cô lạnh băng, lòng bàn tay anh ấm nóng, nắm chặt lấy tay cô, anh đọc từng câu một cho cô nghe: “Mộ Dung Phong, Doãn Tĩnh Uyển đính ước trọn đời, kết thành vợ chồng, nguyện sống hòa thuật hạnh phúc”. Anh đọc rất chậm, từng chữ từng chữ, giọng nói đó mang theo sự mừng rỡ, mỗi chữ cô đều nghe rõ như thế, nhưng dường như cũng chưa nghe rõ, sức lực toàn thân bị rút đi, cứ yếu ớt dựa vào anh. Còn anhdùng cánh tay ôm chặt lấy cô, dường như sợ hễ buông tay ra là cô biến mất.
Ngày tháng năm sinh của anh, tên họ anh, ngày tháng năm sinh của cô, quê quán tên họ, tên người làm chứng, tên người giới thiệu tên người chủ hôn…những nét chữ khải chi chít viết trên tờ giấy kết hôn màu hồng, cô xưa nay thấy màu hồng rất quê, nhưng hôm nay màu hồng ấm áp như ánh sáng, mơ hồ phát ra ánh nắng ấm áp, trong tim cô có một cảm giác không thể diễn tả được, thích thú đến cực điểm, lại xen lẫn một cảm giác bi thương, luôn cảm thấy thời khắc này dường như không chân thật. Cô nắm chặt lấy một góc giấy chứng nhận kết hôn đó, mỉm cười nói: “Em phải nghĩ cho kĩ, hễ kí vào là em mang họ Mộ Dung đấy”.
Cô ngẩng mặt lên nhìn anh, trong mắt anh chỉ có sự dịu dàng như nước, nhìn cô chăm chú vượt đường xa tới đây, hai người đều rất khổ sở, anh đợi cô lâu như vậy, cô cũng mù mờ tìm lâu như vậy, giờ mới biết hóa ra là anh,đời này hóa ra là anh.
Cô vùi mặt vào lòng anh, anh ôm chặt lấy cô, giống như giây phút trùng phùng, nhưng khoảnh khắc này càng ngọt ngào hơn, càng chắc chắn hơn. Lâu như vậy xa như vậy, từ lần đầu gặp mặt đến bây giờ, cách lâu như vậy ở giữa nhiều người như thế, nhiều chuyện như thế, rốt cuộc anh đã đợi được cô.
Giọng nói anh như trong mơ: “Tĩnh Uyển em còn nhớ không…”. Cô “ừ”một tiếng, anh không nói tiếp, cô không hề truy hỏi, thật ra mọi thứ đối với cô giờ như mơ, cho dù bây giờ rõ ràng là đang ôm nhau, nhưng vì đợi nhau quá lâu nên cảm giác ngọt ngào này như giấc mơ. Nhưng giấc mơ này ngọt ngào say đắm như thế, anh nào nỡ nghĩ ngợi nhiều. Trái tim bình yên thanh thản, vì biết rõ cô là của anh, biết rõ đời này kiếp này cô là của anh. Nụ cười cô ngọt ngào như thế, hai con mắt đen láy trong suốt, trong đó chỉ có bóng hình anh. Trên môi cô hơi thở ngọt ngào, anh hôn lên khóe môi cô: “Đợi đánh trận xong, anh sẽ cho em một hôn lễ lớn nhất, anh muốn cho cả thế giới biết hai ta hạnh phúc nhường nào”.
Hà Tự An vốn rất trầm tính, hôm nay không biết vì sao đứng ngồi không yên, khoanh tay đi đi lại lại trong phòng, đi lại mấy lượt lại nhìn đồng hồ trên tường. Căn phòng lớn làm việc này là nơi xử lý việc quân của Mộ Dung Phong, trên tường treo mấy bức bản đồ quân sự, trên bàn đặt một núi báo cáo quân sự, điện báo công văn đến và đi, ngoài ra còn mắc mấy chiếc điện thoại. Cách bài biện rối ren ấy khiến người ta nhìn vào cảm thấy ngột ngạt.
Hà Tự An ngồi một lát, đứng dậy bước vài bước, nghe tiếng tích tắc tích tắc của đồng hồ trên tường, trong lòng càng khó chịu. Nghĩ một lát cuối cùng anh đi ra ngoài, men theo hành lang đi thẳng về phía sau. Sắc trời đã tối, trong căn nhà ngang phía sau có một vườn hoa nho nhỏ, cây cối xanh tốt. Thẩm Gia Bình đang ngồi đó, vừa ngân nga khúc dân ca vừa bốc lạc ăn, thấy anh đi vào liền chào một tiếng. Hà Tự An nhìn vế phía sau, phía sau là một tầng sân nữa, cảnh vệ đứng gác cổng, có thể thấy thị vệ đi lại thấp thoáng tuần tra bên trong. Hà Tự An hỏi Thẩm Gia Bình: “Sớm như vậy Cậu Sáu đã đi ngủ rồi?”.
Thẩm Gia Bình nói: “Mới ăn tối xong, lát nữa đưa Doãn tiểu thư lên phố mua đồ. Xem ra năm nay sẽ tổ chức đám cưới thật rồi”. Hà Tự An nghe nói câu này, không khỏi cảm thấy tiếc nuối, thở dài một tiếng, dùng tay bóp vỏ lạc, ấn đến bẹp dí, cuối cùng vổ tay, phủi hét vụn nhỏ, nói: “Không ngờ Doãn tiểu thư này có thể tu thành chính quả”. Thẩm Gia Bình nói: “Tuổi của Cậu Sáu cũng nên kết hôn lâu rồi, mấy lão phu nhân cứ nói hoài, chỉ là cậu ấy không buồn nghe. Lần trước đi Càn Bình gặp người của Trình gia, nguy hiểm như thế lại nhất định phải đi gặp Doãn tiểu thư, không phải anh nói Cậu Sáu yêu thật lòng rồi sao?”.
Hà Tự An nói: “Yêu là yêu, kết hôn là kết hôn, đây là hai chuyện khác nhau”. Thẩm Gia Bình cười ha ha, nói: “Dựa theo pháp luật, coi như họ đã kết hôn rồi”. Hà Tự An nói một câu vô thưởng vô phạt: “Bây giờ là xã hội dân chủ, đương nhiên phải dựa theo pháp luật rồi”. Tâm trạng anh vốn rất tệ, nhưng bây giờ bỗng có chút tinh thần: “Doãn tiểu thư đến cũng tốt, việc ăn ở của Cậu Sáu vốn cần người lo liệu, phụ nữ vốn cẩn thận chu đáo, tốt hơn nhiều so với cảnh vệ. Ngày đó không phải đại soái luôn khen Tứ phu nhân là: “Tùy quân phu nhân”* sao? Hơn nữa bình thường Cậu Sáu luôn nhớ nhung cô ấy, cuối cùng đã được ở bên nhau, Cậu Sáu cũng bớt lo lắng nhiều”.
Vì tính khí Mộ Dung Phong không tốt, gần đây việc quân bận rộn, đương nhiên lại càng nóng nảy, cho nên các cảnh vệ hay bị ăn mắng, từ sau khi Tĩnh Uyển đến, Thẩm Gia Bình dường như trút được gánh nặng. Huống hồ Tĩnh Uyển là con gái, thân ở trong quân đội mà không hề ngạo mạn, thường mặc đồ nam đi theo Mộ Dung Phong. Hai tuyến Nam Bắc Thừa quân đồng thời chiến đấu vô cùng vất vả, còn cô cùng Mộ Dung Phong đi lại khắp các hành dinh, chạy hàng ngàn cây số, trong mưa bom lửa đạn không rời nửa bước, cho nên không ít tướng lĩnh bên cạnh Mộ Dung Phong đầu tiên lườm nguýt, sau đó hoài nghi, cuối cùng hễ nhắc đến “phu nhân” là không kìm được khen ngợi, bái phục không thôi. Ngay cả phóng viên nước ngoài cũng đăng ảnh chụp chung của cô và Mộ Dung Phong lên báo Tây, khen “Mộ Dung phu nhân cũng anh hùng”.
Cho nên hôm đó Tôn Kính Nghi cảnh vệ đi theo Thẩm Gia Bình : “Không biết vì chuyện gì mà phu nhân ngồi khóc ở đó”. Thẩm Gia Bình nói: “Vớ vẫn sao phu nhân lại khóc!”. Nói xong lại cảm thấy tuy cô kiên cường rốt cuộc vẫn chỉ là phụ nữ, câu nói của mình cũng quá võ đoán, liền hỏi: “Vì sao khóc?”.
Tôn Kính Nghi nói: “Hôm trước đánh Phụ Thuận, thu hoạch được rất nhiều thứ, đều chất cả trong kho. Mấy ngày nay phu nhân quá buồn chán, rồi đến kho tiện lấy hai quyển sách và mấy tờ báo cho phu nhân xem, không biết vì sao, vừa nãy tôi thấy phu nhân ngồi ở đó một mình, lặng lẽ khóc”.
Thẩm Gia Bình biết tính cách Tĩnh Uyển rất kiên cường, có lần ngã xuống từ lưng ngựa cũng không thấy cô đỏ mắt, nên nghe Tôn Kính Nghi nói vậy, trong lòng thấy hơi lo lắng. Anh nghĩ một lát nói: “Cậu Sáu còn đang họp, tôi đến xem phu nhân có gì dặn dò không”.
Đại quân tiến xuống phía Nam, lúc này hành dinh đặt tại thị trấn nhỏ Thanh Bình cách Phụ Thuận chỉ ba bốn cây số, vì nơi đóng quân không đủ, cho nên trưng dụng nhà quan chức về hưu của địa phương làm hành dinh. Thị trấn Thanh Bình tuy không lớn, nhưng từ xưa là trạm dịch trọng yếu, cho nên tuy là nhà dân, nhưng rất nhiều giếng trời, lớp lớp sân vườn, rộng rãi và hoa lệ. Trong chiếc sân phía trước căn nhà Tĩnh Uyển có thể đặt hàng trăm chậu hoa cúc, chen chúc như biển hoa. Thẩm Gia Bình từ xa đã nhìn thấy Tĩnh Uyển đứng trước cửa sổ, lặng lẽ nhìn biển hoa như gấm nhung. Bọn họ luôn kính trọng Tĩnh Uyển, vậy nên vừa vào phòng đã lập tức hành lễ: “Phu nhân”.
Bình thường Tĩnh Uyển rất ít khi dùng son phấn, những khi bôn ba hầu như cô đều mặt đồ nam, lúc này vì trong hành dinh nên cô mặc chiếc sườn xám nhung màu xanh thẳm hết sức bình thường, trên mặt phủ một lớp phấn mỏng, tuy thế vẫn có thể nhận ra khóe mắt hoe đỏ. Thẩm Gia Bình đang suy tính, Tĩnh Uyển thấy vẻ mặt anh liền gượng cười, nói: “Hôm nay tôi hơi mệt, anh đừng nói với Cậu Sáu”.
Thẩm Gia Bình nhìn dáng vẻ cô, dường như vô cùng đau lòng, nhưng anh chỉ là đội trưởng cảnh vệ, rất nhiều việc không tiện hỏi, đành đáp: “Nếu có chuyện gì, phu nhân có thể giao Gia Bình làm”. Tĩnh Uyển “ừ”một tiếng, một lúc sau mới hỏi anh: “Theo anh lúc nào mới có thể tấn công Càn Bình?”. Thẩm Gia Bình nghe cô hỏi vậy, vô cùng bất ngờ, vì tuy cô ở trong quân đội, nhưng chưa từng hỏi việc quân, bình thường đa phần bận mấy việc vặt như thăm hỏi quân lính hay cầm máu…anh chần chừ đáp: “Việc tiền tuyến rất khó nói, cũng không quá mấy ngày đâu”.
Tĩnh Uyển lại “ừ”một tiếng, Thẩm Gia Bình tinh mắt, thấy một tờ báo đặt trên chiếc bàn bằng gỗ lê,cầm lên xem, thấy đó là một tờ “Dĩnh Châu nhật báo”, mấy ngày trước mặt báo có cáo thị màu đen rất bắt mắt: “Tuyên bố đoạn tuyệt cha con Doãn Sở Phàn và Doãn Tĩnh Uyển”, anh đọc lướt thấy giọng điệu rất gay gắt, nói: “Đứa con gái hư đốn bỏ nhà bỏ nước là bất trung, hủy hôn ra đi là bất nghĩa, không nói với cha mẹ là bất hiếu”, lại viết “Kẻ bất hiếu, bất trung, bất nghĩa không thể là gia tộc Doãn thị, cho nên tuyên bố đoạn tuyệt quan hệ cha con”.
Tĩnh Uyển thấy anh đọc báo, cười thê lương nói: “Bái Lâm sắp về rồi, anh đem cái này đi, đừng để anh ấy nhìn thấy”. Từ lúc Thẩm Gia Bình quen biết cô, chưa từng thấy vẽ mặt cô như vậy, trong lòng buồn rầu, nói nhỏ: “Việc này vẫn nên nói với Cậu Sáu thì hơn, phu nhân chịu đựng tủi nhục như vậy, đến lúc đó Cậu Sáu có thể ra mặt giải thích rõ ràng”.
Trong mắt Tĩnh Uyển ngân ngấn lệ, quay mặt đi nói nhỏ giống như thì thầm một mình: “Ngay cả cha mẹ tôi cũng không cần tôi nữa, còn gì đáng để giải thích chứ?”.
Chương 21:
Mộ Dung Phong đi xem bố phòng nên về hành dinh rất muộn. Căn phòng cũ kĩ ảm đạm.trong phòng khách bật đèn,dưới chiếc chụp đèn màu trắng đục, ánh sáng tỏa ra một quầng vàng tối mờ mờ,đồ dùng đều là gỗ lê kiểu cũ, hoa văn trạm trổ lồi lõm, dưới ánh đèn càng đượm không khí cổ xưa. Trong phòng im phăng phắc, bàn ăn bên ngoài đặt một nồi lẩu hoa cúc đã sắp cạn, kêu lục bục, ngọn lửa bên dưới cũng sắp tàn. Mộ Dung Phong thấy bốn đĩa thức ăn bên cạnh đều lạnh ngắt, liền đi vào bên trong, dưới ánh đèn màu, chiếc mành lụa trên cửa ánh lên ánh tím âm u, chiếc màn trân châu trên giường cũng lờ mờ phát ra ánh sáng tím hồng.
Tĩnh Uyển đợi quá lâu, đã mặc cả quần áo đi ngủ, Mộ Dung Phong khẽ khàng, giở chăn ra định đắp cho cô, cô tỉnh giấc, thấy anh mĩm cười nói: “Sao em lại ngủ quên chứ, anh ăn cơm chưa?” Mộ Dung Phong đáp: “Anh ăn rồi lần sau đừng đợi anh, cẩn thận đau dạ dày đó”. Cô vừa nói vừa ngồi dậy, vì tóc cô buông ra, xõa xuống hai bên mai, đang định đưa tay lên vuốt, anh đã vén giúp cô với sự yêu thương vô hạn: “Đồ ăn đều nguội rồi, em muốn ăn gì, anh bảo họ đi làm”.
Tĩnh Uyển nói: “Em muốn ăn bánh ga tô hạt dẻ ở Tường Vi Mộc.” Tường Vi Mộc là nhà hàng Tây ở Thừa Châu, thị trấn Thanh Bình cách Thừa Châu hơn hai trăm cây số, cô nói muốn ăn món đó chỉ là nói đùa với anh, Mộ Dung Phong hơi do dự, lấy chiếc áo khoác vải gabardine(*) màu tím đỏ của cô trên giá xuống: “Nào,chúng ta đi mua bánh ga tô”. Tĩnh Uyển cười nói: “Đừng đùa nữa đã đến chín giờ tối rồi, không đi nghỉ ngay đi, ngày mai lại không dậy sớm được”. Mộ Dung Phong nói: “Sáng mai anh không có việc”. Anh khoác áo cho cô, Tĩnh Uyển bị anh kéo ra ngoài, nói: “Nửa đêm rồi anh định đi đâu đây?”.
Mộ Dung Phong “suỵt”một tiếng: “Đừng làm ồn chúng ta trốn ra ngoài”. Tuy nói là trốn, vừa ra khỏi cửa đã gặp cảnh vệ tuần tiểu, thấy hai người họ vội vàng hành lễ. Mộ Dung Phong cũng không để ý đến họ, khoác tay Tĩnh Uyển đi ra ngoài, khi cảnh vệ đi báo cáo với Thẩm Gia Bình, họ đã ra ngoài nhà xe. Lái xe thấy họ cũng rất kinh ngạc, lại đều động một đống người cho xem”. Mộ Dung Phong không đáp, bỗng bế bỗng cô lên, còn chưa kịp phản ứng cô đã bị anh ôm vào trong xe. Cô vừa tức, vừa buồn cười, anh đóng cửa xe, đích thân ngồi vào vị trí lái xe, khởi động xe.
Xe lao ra ngoài, thị trấn Thanh Bình vẫn còn mấy cửa hàng chưa tắt đèn, ánh đèn vàng vọt chiếu trên con đường lát đát, vì thời tiết lạnh, ánh sáng ấy dường như cũng lạnh lẽo. Thứ ánh sáng màu vàng nhạt hai bên đường đó giống như món chanh đông lạnh cô thích ăn, lại giống như đá trong trà chanh, dần dần tan đi thấm trong màn đêm từng chút một. Chiếc xe xuyên qua ánh đèn, không lâu sau đã bỏ lại thị trấn sau lưng. Cô quay đầu lại chỉ thấy ánh đèn lác đác lác đác, càng ngày càng xa, ngạc nhiên hỏi: “Chúng ta đi đâu thế?”
Anh cười nói: “Chẳng phải nói đi mua bánh ga tô sao?”
Tĩnh Uyển ngỡ anh nói đùa, vì bình thường anh cũng thích tự mình lái xe đi dạo, liền mỉm cười: “Đi một vòng rồi về thôi.” Xe men theo con đường đi thẳng về phía Bắc, hai hàng đèn đơn độc bên đường, phía trước là bóng tối, một lúc sau lại rẽ sang đường lớn, xe cộ đi lại như thoi đưa hóa ra đều là xe vận chuyển quân nhu, vô cùng náo nhiệt. Vì buổi sáng đau lòng mệt mỏi, lúc này xe đang lắc lư, Tỉnh Uyển bất giác ngủ thiếp đi.
Cô ngủ một giấc khi tỉnh dậy, xe vẫn tiến về phía trước bên ngoài cửa trời vẫn tối mù mịt, thỉnh thoảng có xe đi lướt qua,ánh đèn lóe lên trong chốc lát rồi vụt qua. Cô thầm kinh ngạc, gọi một tiếng: “Bái Lâm”. Anh lái xe nên không quay đầu lại, chỉ hỏi cô: “Tỉnh rồi à, có lạnh không?” “Không lạnh, đây là đâu?”. Anh dịu dàng nói: “Đã đi qua thành Lý An rồi, hai tiếng nửa là đến Thừa Châu”.
Tỉnh Uyển quá kinh ngạc, một lúc lâu không nói nổi, cuối cùng anh quay đầu lại liếc cô một cái: “Phu nhân anh nửa đêm lái xe như thế này đáng được thưởng chứ”.Tim cô ấm áp vô cùng, cô vươn người hôn mặt anh, anh chầm chậm dừng xe bên đường,t ắt máy xe nâng mặt cô lên dịu dàng hôn, rất lâu rất lâu sau mới buông ra, hơi thở cô hơi gấp, hai má nóng ran, tay vẫn nắm chặt lấy tà áo anh, trong bóng tối, mắt anh long lanh tỏa sáng.
Mặt cô vẫn áp vào ngực anh, tim anh đập thình thịch, thình thịch, dịu dàng như âm thanh hay nhất thế giới. Giọng nói của cô nho nhỏ, giống như nói mơ: “Bái Lâm, em chỉ có anh thôi.” Anh hôn tóc cô, hơi thở ấm áp của cô phả vào mặt cô. Anh nói: “Anh cũng chỉ có em”.
Hai bên đường đều là đồng không hiu quạnh, xung quang tối đen như mực, bầu trời đầy sao như đinh mực rơi vãi lung tung, như muốn rắt lên hết đầu người vậy. Xa xa nghe thấy tiếng xe đi đến gần, ầm ầm vang lên, cuối cùng đèn xe lóe lên, vụt qua xe họ. Nghe tiếng xe đó đi xa dần xa dần , bầu trời đầy sao dường như cũng xa dần, chỉ có một ảo giác vĩnh hằng, cả thế giới chỉ còn lại chiếc xe này của họ, chỉ còn lại anh và cô.
Trời chưa sáng họ đã đến Thừa Châu, vì cổng thành chưa mở, họ dừng xe ở dưới bức tường thành tránh gió, Tĩnh Uyển thấy vẽ mặt anh mệt mỏi, nói: “Anh ngủ một giấc đi.” Cô đưa áo khoác cho anh, anh lái xe lâu như vậy, thật sự cũng rất mệt, gần như nghiêng đầu là ngủ. Tĩnh Uyển đắp áo khoác cho anh, còn mình lặng lẽ nằm bên cạnh. Phía đông dần dần lóe lên ánh sáng trắng mờ mờ, có người ở quê kéo xe chở hàng chuẩn bị vào thành bán, chiếc xe một bánh lọc cọc lọc cọc, chất đầy rau củ, vỏ bí đao vẫn còn phấn, những quả tròn tròn được rửa rất sạch sẽ, chất một đóng cao ngất, cô nhìn từ xa tưởng là táo, sau mới biết là củ cải đỏ. Một bé gái, vi khoảng bốn năm tuổi ngồi trên giá trước xe, vì thời tiết lạnh nên cô bé mặc một chiếc áo bông vải hoa, khuôn mặt lạnh đỏ ửng, đôi mắt long lanh nhìn cô. Cô mỉm cười với đứa bé đó, nó cũng mĩm cười với cô, quay lại chỉ cho cha mình “ô tô”.
Mặt trời sắp mọc, ngoài thành lác đác người vào thành cho kịp buổi chợ sớm, người đẩy xe người kéo xe, người gánh quang gánh, chỉ cách cô một lần cửa kính xe, từ xa cũng có thể thấy niềm vui bình dị của họ. Mộ Dung Phong ngủ rất say, tuy ngủ trên xe không thoải mái, nhưng gương mặt anh khoan thai mà bình yên, cô muốn đưa tay ra vuốt ve đôi lông mày rậm của anh, giống như mỗi sáng gọi anh dậy, nhưng hôm nay không được, người bên ngoài có lẽ sẽ nhìn thấy, trong xe chỉ có hơi thở của anh, chậm rãi ổn định, âm thanh đó khiến người ta bình yên, cô gần như cũng sắp ngủ thiếp đi.
Cửa thành chậm chạp mà nặng nề phát ra âm thanh xịch xịch, xe một bánh lọc cọc lọc cọc đẩy qua xe họ, bé gái đó ở phía sau quay đầu lại cưới với cô. Mặt trời cũng đã mọc, nắng xuyên qua cửa kính chiếu vào mặt anh, nắng sớm mùa thu mong manh như có như không, qua cửa kính nhen lên chút ấm áp. Lúc anh ngủ trông hơi trẻ con, khóe miệng cong cong nhướn lên, giống như trẻ nhỏ mơ thấy kẹo. Cô hơi không nỡ, gọi nhỏ một tiếng: “Bái Lâm”.Thấy anh không phản ứng, lại gọi thêm lần nửa mới: “ừ” một tiếng mơ màng lẩm bẩm: “Bảo họ đợi chút”.
Tỉnh Uyển thấy hơi buồn cười, đưa tay ra đẩy anh: “Dậy dậy đây không phải ở nhà đâu”.Anh giờ mới nghiêng người ngồi dậy, uể oải xoay người, rồi quay người lại cười nói với cô: “Ai nói đây không phải là nhà, không phải chúng ta đi về nhà rồi sao?” Tuy nói thế, họ đến Tường Vi Mộc ăn sáng, lại gói hai phần đem về, vì thời gian gấp rút không kịp về soái phủ, chỉ bơm thêm xăng rồi lập tức quay về lại Thanh Bình.
Mộ Dung Phong cười nói với cô: “Thế này cũng coi chúng ta qua nhà mà không vào nhỉ?” Từ sau khi kết hôn với anh, cô chưa về nhà chồng hành lễ, trong lòng hơi rung động, không biết là vui hay buồn. Anh nói: “Đợi đánh trận xong chúng ta có thể về nhà được rồi”.Cô thẫn thờ nói: “Đi lại xa xôi thế này chỉ để ăn bánh ga tô hạt dẻ, ngốc thật”. Anh rút một tay ra nắm tay cô: “Ở bên em, anh thích làm những việc ngốc nghếch thế này”.
Câu nói đó quen tai như vậy, cô cười ngẩn ngơ, không nhớ ra từng nghe ở đâu, cô rút tay ra: “Chuyên tâm lái xe đi, lái nhanh như thế mà chỉ dùng một tay”. Sáng sớm trên đường rất ít xe, chỉ có xe chở quân nhu ầm ầm đi qua. Đồng hoang xa xôi bên ngoài, mây mù bao phủ, bên ngoài cửa sổ thỉnh lướt qua thôn làng nhà cửa, cây táo trước nhà ai đó đã phớt đỏ lốm đốm. Rơm rạ chất đầy trên mặt đất, rạ cây cao lương chất thành ngọn núi nhỏ. Thỉnh thoảng có trẻ con trong thôn dắt trâu, đứng ngay ra giữa ruộng nhìn xe qua đường.
Cảnh sắc con đường này tuy rất bình thường nhưng vì hai người biết đó là phút an nhàn hiếm có, nên trong lòng vui vẻ như đã lén lút làm gì đó phạm pháp. Cô nói: “Hành dinh Thanh Bình chắc chắn đã loạn lên hết rồi”. Anh cười nói: “Kệ đi dù sao đã cố gắng quay về, cùng lắm là họ lải nhải vài câu”.
Chương21.2
Kết quả là họ vừa ra khỏi thành Lý An không lâu, từ xa đã nhìn thấy phía trước bị chặn đường. Đại đội vệ binh vác súng đứng thẳng ,đang kiểm tra xe qua lại quần áo của cảnh vệ bằng vải nỉ màu xanh thẫm, nhìn là nhận ra đội cận vệ Mộ Dung Phong cười nói: “Bày trận lớn thế không biết có phải thu tiền mãi lộ không?”. Tĩnh Uyển lườm anh một cái: “Anh còn cười nữa chắc chắn là tìm chúng ta”. Mộ Dung
Phong cười ha ha, giảm tốc độ dừng xe lại.
Quả nhiên là đích thân Thẩm Gia Bình dẫn người đợi ở đây, vì họ đuổi theo suốt dọc đường, biết hai người đi về hướng Thừa Châu, nhưng không ngờ lại đi xa như vậy, nên đành lập bốt đợi ở đây. Mộ Dung Phong thấy Chu Cử Luân tuy là thư kí, nhưng thật ra từ nhỏ Mộ Dung Phong đã theo ông học mưu lượt quân sự, tuy không chính thức truyền nghiệp nhưng cũng được coi là thầy. Từ trước đến nay ông là trợ tá đắc lực, lời nói rất có trọng lượng. Mộ Dung Phong cũng rất kính nể ông, cho nên mới gọi ông là thầy, thật ra trong lòng anh rất ngại, Thẩm Gia Bình đã mở cửa xe, Mộ Dung Phong đi xuống, cười với Chu Cử Luân, nói: “Chu tiên sinh cũng đến rồi”. Anh nghĩ nhất định Chu Cử Luân sẽ mắng một bài dài, hành động của anh quả thật nông nổi, đàng cố gắng chịu trận. Ai ngờ vẻ mặt Chu Cử Luân nghiêm túc, chỉ đi lên một bước, nói: “Cậu Sáu, xảy ra chuyện rồi”.
Tim Mộ Dung Phong chùng xuống, vì đại cục tiền tuyến đã định, gần như đã cầm chắc chín phần, không thể có sự thay đổi quá lớn, cho nên anh mới nhất thời đưa Tĩnh Uyển đi Thừa Châu. Không ngờ chỉ một đêm không về, Chu Cử Luân đã nói một câu như vậy, anh liền buột miệng hỏi: “Xảy ra chuyện gì? Dĩnh quân lấy lại được Phụ Thuận? hay là Hộ Quốc quân để mất cửa Đức Thắng?” Tuy hỏi thế nhưng anh biết chiến cục đã định, hai nơi đó đều không thể có chuyện, ngoài hai chuyện đó, chuyện khác đều không liên quan đến đại cục.
Quả nhiên Chu Cử Luân lắc đầu, vẻ mặt hơi ưu phiền: “Không phải Dĩnh Quân. Mời Cậu Sáu lên xe tôi sẽ báo cáo với Cậu Sáu”.Tỉnh Uyển đã xuống xe, thấy Mộ Dung Phong hơi chau mày, lập tức vô cùng lo lắng. Anh quay đầu lại nhìn cô, nói: “Em ngồi sau xe, anh và Chu tiên sinh có việc”.
Cô gật đầu lái xe lái xe đến bên cạnh, cô nhìn Mộ Dung Phong và Chu Cử Luân lên xe, còn mình cũng lên chiếc xe sau. Xe của cảnh vệ tiền hô hậu ủng đưa họ về.
Họ về đến thị trấn Thanh Bình vào buổi trưa, trên đường vất vả, Tỉnh Uyển thấy rất mệt, tắm xong nói chờ hong khô tóc, ai ngờ ngồi trên so fa ngủ thiếp đi. Lúc tỉnh dậy trời đã tối, trong căn phòng tối om, cô lần mò bật đèn nhìn đồng hồ, hóa ra đã mười giờ tối. Cô đi ra ngoài hỏi Tôn Kính Ngư, mới biết từ lúc về Mộ Dung Phong vẫn chưa họp xong. Tôn Kính Ngư nói: “Phu nhân chưa ăn tối, tôi bảo nhà bếp làm chút đồ ăn nhẹ nhé”.
Cô vốn rất khỏe mạnh nhưng hai ngày nay cứ nghe nói đến cơm là thấy ngán, đành nói: “Bảo nhà bếp nấu chút mì đi”.Tôn Kính Nghi vâng lời ra đi, một lát sau bưng lên một bát mì nóng hỏi, một bát nuớc canh đen sánh, ngoài ra còn có bốn đĩa dưa muối. Cô ngồi xuống nhìn mới biết canh đen sánh đó là nước sốt, món mì nước sốt ở phía bắc gồm mì luộc sẵn, ngoài ra chuẩn bị nước sốt rưới lên. Trong nước sốt đó ngoài thịt gà xé phay, ruốc, lươn, giăm bông, còn cả hải sâm các loại, vị tanh của đồ biển xông thẳng vào mũi, cô chỉ thấy như tắc ở cổ, cực kì buồn nôn, vội vàng bỏ thìa xuống, đẩy bát nước sốt đó ra thật xa, đứng dậy đi ra mở cửa sổ cho gió đêm mát rượi thổi vào, cô mới cảm thấy dể chịu hơn một chút.
Bị giày vò như thế, cuối cùng cô chỉ ăn một nửa bát mì với dưa muối, sửa soạn qua loa rồi lên phòng ngủ. Cô nhớ Mộ Dung Phong nên ngủ không ngon, mơ mơ tỉnh tỉnh đến tận sáng mới thật sự chìm vào giấc ngủ.
Chiều hôm sau Mộ Dung Phong mới về, vì đêm trước không ngủ đêm sau lại thức thâu đêm, trong mắt anh vần lên toàn tia máu. Dáng vẻ giống như mệt mỏi đến cực điểm, sau khi về cơm cũng không ăn, nằm lên giường ngủ luôn, nghe tiếng ngáy nho nhỏ của anh. Tĩnh Uyển thấy vô cùng đau lòng, cúi người xuống tháo giầy, lại đắp chăn cho anh, còn mình đứng trước cửa sổ là áo sơ mi cho anh.
Cô chưa là xong mấy cái áo, Tôn Kính Ngư đã gọi khe khẽ bên ngoài: “Phu nhân”. Cô vội đi ra, hóa ra là Hà Tự An đến, bình thường anh luôn rất kính cẩn với cô, hành lễ rồi mới nói: “Phiền phu nhân gọi Cậu Sáu dậy”. Đương nhiên là việc quân cấp thiết, cô hơi chần chừ, Hà Tự An đã giải thích: “Trong cuộc tổng tuyển cử của nước bạn chúng ta xảy ra chuyện, bây giờ thái độ của bên cầm quyền không tốt cho chúng ta. E rằng về sau chiến cục phía bắc sẽ rất khó khăn cho chúng ta. Nếu điều binh từ tuyến Nam về,vậy thật sự sẽ phí hết công sức, bây giờ điện báo của họ đã đến rồi…”.
Cô đang kinh ngạc, định hỏi tiếp,Mộ Dung Phong, trong phòng đã tỉnh, hỏi: “Ai ở bên ngoài thế?” Cô đáp: “Là Hà tiên sinh đến” Anh cứ thế mặc luôn đồ ngủ, đi giày xong liền bước ra, bình thường họ nói chuyện cô không làm phiền, cho nên quay vào bên trong. Không biết vì sao cô cứ miên mang nghĩ đến lời nói của Hà Tự An, đờ đẫn một lúc lâu, chợt ngửi thấy mùi khét, mới nhớ ra mình đang là quần áo. Chân tay lóng ngóng thu dọn, chiếc bàn là đó rất nóng, cô lại không quen làm việc này, vội vàng muốn nhấc lên, nhưng lại chạm vào tay, cô kêu thất thanh “á” một tiếng, chiếc bàn là rơi bịch xuống đất.Mộ Dung Phong ở bên ngoài nghe thấy tiếng la của cô lập tức xông ngay vào, thấy cô đứng đó không biết phải làm sao, anh cuống quýt, hỏi: “sao thế”.
Tuy cô đau nhưng cố chịu đựng,nói: “không sao chỉ bỏng một chút thôi”.Anh nâng tay cô lên xem, vết bỏng đã phồng rộp, có vẻ bỏng không nhẹ, anh quay đầu lại hét lên: “Tôn Kính Nghi mau lấy mỡ chồn đến đây” Thấy chiếc khăn mặt treo trên giá bên cạnh, anh vội vàng thấm ướt phủ lên giúp cô, đến khi Tôn Kính Nghi đem mỡ chồn đến bôi, tay cô dể chịu hơn nhiều.
Cô rất xấu hổ: “Em thật ngốc chút việc cỏn con cũng không làm được”. Anh nói: “Mấy việc này vốn không cần em làm, tự em cứ thích trổ tài”. Tuy ý trách móc, nhưng giọng điệu đầy thương xót. Trong lòng cô ngọt ngào, mỉm cười nói với anh: “Hà tiên sinh còn đợi anh ở bên ngoài đó, mau đi ra đi đừng để lỡ việc”.
Anh “ừ” một tiếng lại dặn dò cô: “Đừng thích trổ tài nữa”. Cô giậm chân: “Cả ngày chê em lắm chuyện, anh còn lắm chuyện hơn em”. Anh vốn vì tình hình nguy cấp, luôn khó chịu không vui, thấy cô giận dỗi vớ vẫn như thế, dáng vẻ yểu điệu dễ thương rung động lòng người, nên không nhịn được mỉm cười.
Chương 22:
Vì đã vào đông chiến sự ngày càng cấp bách. Thừa quân tuy đánh đến thành Càn Bình, nhưng vì chính phủ nước ngoài ra mặt, nên không thể không tạm đình chiến, chỉ bao vây Càn Bình, cuộc điều đình do chính phủ nước ngoài bắt đầu đàm phán. Vì nước bạn chuyển qua ủng hộ chính phủ Xương Nghiệp, nên Mộ Dung Phong rất đau đầu, tình hình đàm phán cũng bị mắc ở đó. Tuy Càn Bình đã nắm trong tay, nhưng vì chịu sự kìm hãm trong ngoài, Thừa quân không thể động đậy được. Không chỉ chiến sự ở phía Nam mà chiến sự giữa tuyến Bắc và nước Nga cũng vì có một số nước uy hiếp nên phải liên quan, không thể không kiêng kỵ vài phần.
Cho nên không chỉ Mộ Dung Phong, ngay cả đám trợ lí cũng sốt ruột. Hôm đó sau khi cuộc họp kết thúc, các thư kí ai cũng bận rộn, chỉ có Hà Tự An và Chu Cử Luân chưa đi. Mộ Dung Phong vốn không thích ngồi lâu, lúc này nửa ngồi nửa nằm trên sofa, gác chân lên bàn trà hút thuốc, điếu hút chưa được một nửa đã vứt đi, lát sau châm một điếu khác, lúc sau lại dúi vào chiếc gạt tàn thủy tinh, trong đó đã chứa đầy tàn thuốc lá. Hà Tự An ho một tiếng nói: “Cậu Sáu, Tự An có mấy câu không biết nên nói hay không?”.
Mộ Dung Phong nói: “Tôi thấy mấy hôm nay cậu cứ ấp a ấp úng, rốt cuộc có chuyện gì?” Hà Tự An nói: “Bây giờ tình hình tuy không xấu lắm, nhưng cứ mắc kẹt thế này sẽ gây bất lợi cho chúng ta. Cho dù dành được Càn Bình, đại cục phải nghe theo sự sắp đặt của chính phủ Xương nghiệp quả thật rất vô vị.” Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng ,nói: “Nội các Xương Nghiệp do Lý Trọng Niên nắm giữ, cái tên đó có thù với chúng ta đã lâu, bâygiờ chắc đang cười với nỗi đau của người khác”. Trong lòng anh phiền não, cứ dùng chân đá mấy cái chụp bằng sa tanh thêu hao trắng trên bàn trà, đôi giày quân đội bằng da trên chân, anh đã bị sa tanh chà sáng bóng, đám chụp bằng sa tanh đã bị nhuốm vết bẩn lớn, biến thành màu nâu đất. Chu Cử Luân là một người nghiện thuốc, chỉ ngồi bên hút thuốc không hề nói gì.
Hà Tự An nói: “Nội các tuy là của Lý Trọng Niên, nhưng không nắm tiền và lương thực, hắn ta cũng khó mà d0i được một bước. Nếu Trình gia Ủng Nam chịu ủng hộ cậu Sáu, không những nguy cơ trước mắt được giải quyết mà đại sự sau này còn xuôi chèo mát mái”. Mộ Dung Phong vốn đã buồn phiền, đá mạnh vào bàn trà phát ra tiếng lạch cạch: “Đừng vòng vo cậu có cách gì hả, thuyết phục Trình Doãn Chi ủng hộ tôi?”
Hà Tự An hơi nhuớn người về phía trước, trong mắt thấp thoáng tia nhìn kì lạ: “Cậu Sáu TRình gia có một tiểu thư khuê nữ, nghe nói tuy từ nhỏ lớn lên ở nước ngoài, nhưng nhân phẩm tướng mạo đều rất xuất sắc, hơn nữa rất có tài, Trình gia có bốn anh em, Trình Doãn Chi gọi tiểu thư này là Trình Gia nhất kiệt…” Hà Tự An còn chưa nói xong,đã thấy ánh mắt Mộ Dung Phong sắc nhọn, như băng như tuyết phóng tới, anh ta không hề chần chừ nói tiếp: “Cậu Sáu kết thông gia là cách nhanh gọn nhất lúc này, nếu kết thông gia với Trình gia, thiên hạ này không phải thuộc về Cậu Sáu sao?”
Khóe miệng Mộ Dung Phong hơi chùng xuống: “Nếu Mộ Dung Phong tui tiến thân nhờ phụ nữ, không phải khiến thiên hạ chê cười hay sao?”.
Giọng điệu anh đã cực kì gay gắt, Hà Tự An không hề do dự chút nào: “Đây là kế sách tạm thời, đại trượng phu thất thời mới là tuấn kiệt, Cậu sáu xưa nay không phải là người bảo thủ, hôm nay sao lại nói v