--> Thập Vạn Đại Sơn Vương - game1s.com
80s toys - Atari. I still have

Thập Vạn Đại Sơn Vương

, Tắc Sềnh cùng mấy viên phó tướng Lầm, Lừng, cạnh có đại tá Gilbert với tùy viên.

Đai Sơn Vương, Voòng Chí Plan, Lý Đô Ung, bèn cùng mấy viên đầu lĩnh Phần, Lều Lâu… tiến ngựa xuống sườn non.

- Đại Sơn Vương! Biết điều nên nộp mình mau. Lần này có cánh cũng không hòng thoát khỏi. Chậm trễ ta sẽ huy động toàn lực phá bằng ngọn núi Mã đầu ngay!

- Các tướng sĩ Mã Đầu! Đem nộp Đại Sơn Vương vòng vây sẽ rút ngay! Chúng ta chỉ cần bắt sống Đại Sơn Vương!

Đô Ung:

- Có sức đông, cứ tiến lên, có đủ thời giờ, cứ vây hãm. Ta không khi nào chịu để các mi làm ngặt, gây điều úy tử đâu!

Cả bọn lại ngoắt ngựa lên núi, không thèm nói thêm nửa lời. Quả nhiên, từ đó đến nửa đêm, dưới núi im bặt tiếng súng. Nhưng vòng vây vẫn xiết chặt. Sớm sau, lại thấy mấy cánh quan binh tới, có cả đội sơn pháo đi theo. Chí Plan cả kinh bảo Đại Sơn Vương:

- Không ngờ tướng Roux đã mua hết được cả bọn quan Tàu, thổ phỉ rồi! Ông đã có kế gì chưa? Có lẽ chúng sắp đánh mạnh đến nơi rồi!

Đại Sơn Vương khẽ nói, cặp mắt sáng quắc:

- Chí Plan! Tôi sẽ xuống núi… một mình một ngựa. Cô nương giữ bảo vật, ở lại. Tôi có mệnh hệ nào, bảo vật vẫn có thể theo cùng cô nương thoát khỏi tay cường địch!

Cô gái họ Voòng tiến đến sát chàng tuổi trẻ, lắc đầu ngậm ngùi:

- Em có thể nhận lời ủy thác, nhưng… không chịu để ông xuống núi một mình đâu vì…

Chàng tướng núi bước ra, chỉ mười lăm phút đă trở lại:

- Thoòng Mềnh cũng bị đánh cầm chân tại núi Ô Đầu! Chắc khó lòng về cứu ứng được. Phải xuống núi đêm nay, nếu không núi này sẽ bị đại pháo tàn sát hết! Không ngờ tướng Roux huy động toàn lực chỉ để săn bắt một người! Thì ra đã có sự thỏa thuận ngầm với tướng Long Vân rồi!

Chí Plan ngồi im lặng, lát sau khẽ bảo:

- Nếu vạn bất đắc dĩ phải liều thoát vây, em sẽ theo ông cùng… sống thác

Chàng tướng núi cau mày, định nói gì lại thôi. Nhưng Chí Plan thông minh đã đoán ngay chàng đang thầm tính kế chi, từ phút đó nàng nhất định không rời chàng một bước. Cho đến tối quan binh vẫn chưa mở trận đại tấn công, có lẽ muốn cho tinh thần quân bị vây căng thẳng đến tột độ đã. Và nhất là sợ Đại Sơn Vương loạn chiến, tan cả người lẫn vật như chơi.

Xẩm tối, đột nhiên có nhiều tiếng súng nổ,quân reo. Đứng trên núi, nhờ ánh hỏa pháo, mọi người thấy cả bóng quan binh cự chiến cùng quân ngoài rất dữ dội. Chợt một mũi tên hỏa lớn như ngọn lao bay vọt cầu vồng rớt xuống sơn trại. Nhặt xem mới hay chính Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng đã liều chết chọc vây Ô Đầu Sơn về cứu ứng. Trận đánh kéo dài, nhưng vòng vây quan binh vẫn như lưới sắt, tường đồng. Tuyệt vọng, tử khí trùm sơn trại. Mõ điểm canh ba. Ngọn nến rạp xuống, cháy xèo sau hơi gió đêm thâu.

Tướng Thập Vạn Đại Sơn đứng phắt lên, xốc lại bao súng bên sườn, cặp mắt sâu thẳm nhìn Voòng Chí Plan, giọng chìm hẳn đi:

- Đã đến giờ xuống núi! Lần này thập tử nhất sinh, nhưng… ý Hồng Lĩnh này đã quyết!

Chí Plan toan ngắt lời thì chàng đã giơ tay làm hiệu tiến lại trước mặt nàng mặt rắn như đá tạc rút trong mìmh ra một chiếc hộp nhỏ đặt vào tay nàng.

- Cô nương hãy giữ hộp này và làm theo lời trong thư căn dặn. Vạn nhất không còn ngày tái ngộ, cô nương hãy thay tôi, đừng để báu vật vào tay nghịch tặc. Chính tôi cũng chưa rõ báu vật là chi, nhưng đồ bản khai thông cắt chéo hình lục lăng, giờ đã dược ba.

Tướng lạc thảo ngừng lại, mặt thoáng bâng khuâng, vùng nắm tay tay nữ tướng biên thùy:

- Mai sau… có gặp Phượng Kiều… – Gịong chàng run hẳn lên….

Nhưng giữa khung cửa tranh tối tranh sáng, Pạc Hoọc Đại Vương Thoòng đã đứng sừng sững từ lúc nào, quần áo rách bươm, đẫm máu, cặp súng chĩa bên sườn, thoạt trông hệt một bóng oan hồn tử trận hiện về trong giấc mộng âm u.

- Trời… Thoòng kìa!

Cả hai cùng bật khẽ lên kinh ngạc, Đại Sơn Vương cau mày hỏi lớn:

- Sao Thoòng qua nổi vòng vây trùng điệp? Hay người đã oan thác, chốn trận tiền, u hồn nương mây gió về Mã Đầu Sơn chốn cũ?

Pạc Hoọc Đại Vương cất tiếng cười giòn tan, tiến vào.

- Không! Thoòng vừa “Độn thổ” về đây.

Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan cả mừng vẫn chưa hết ngạc nhiên:

- Hay lắm! Thoòng một mình vào được, tất có cách ra êm? Ta chưa tính được kế gì, đánh liều xuống núi cho chúng khỏi tàn phá Mã Đầu Sơn.

Thoòng Mềnh cúi đầu:

- Lần này không phải chúng chỉ định bắt riêng tướng quân mà cả Thoòng này nữa. Xin hãy an tâm. Đã tới lúc tướng quân cùng Nữ Chúa ra đi.

Cả ba nhảy phóc lên mình ngựa. Thoòng Mềnh dẫn đầu tiến về phía hậu trại ghìm cương bên ngọn Mã Đầu. Tiếng súng nổi lên, vang động canh khuya, Thoòng ngồi im trên ngựa, mấy phút sau, mới dẫn hai người vòng sau ngọn núi. Ngó xuống chân núi hậu, xa xa vẫn thấy hỏa binh ngùn ngụt, quá chừng một trăm thước là vực thẳm muôn trùng không lối xuống. Ngựa dừng bên vách đá ngọn, Thoòng Mềnh xuống ngựa, lần dọc theo vách dá, quơ trong bụi ra một ngọn thừng và thoăn thoắt leo lên. Nháy mắt, đã thấy bóng dáng viên tướng Tàu sừng sững trên ngọn núi chênh vênh, khắc vào nền trờí mờ tối như một hình thạch tượng trên mõm ngựa khổng lồ. Liền tiếp đó mấy sợi thừng buông xuống, Đại Sơn Vương quàng luôn vào bụng ngựa cho Thoòng kéo lên. Phút chốc cả ba con vật đã chui tọt vào miệng ngựa đá. Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan liền bám dây leo lên, tới ngọn ngạc nhiên hỏi Thoòng:

- Ngựa đâu cả rồi?

Thoòng trỏ xuống phía sau:

- Tướng quân cùng Nữ chúa hãy nhìn đường độn thổ! Thoòng đã cho chúng xuống trước rồi.

Đại Sơn Vương đảo mắt ngó quanh thấy đang đứng trước mõm ngựa đá, phía trong tối om, lúc đó mới rõ ngọn Mã Đầu trống rỗng, bên trong có một cái hang chạy từ mép núi vào sâu đến hơn hai thước. Thoòng Mềnh đi trước, lần vào “Họng” ngựa đá chiếu đèn bảo hai người:

- Tướng quân cùng Nữ Chúa chắc không ngờ là ngọn núi này lại có đường độn thổ! Dưới kia, là lối ngầm thông qua một núi đá.

Phía dưới, sâu thẳm như giếng khơi từ mép xuống đến gần ba mươi thước đá dựng đứng rêu phong thẳm dưới đáy, thấy hình thù ba con ngựa chực sẵn đó. Thoòng Mềnh nhắc mấy phiến đá lớn lấp ngoài mỏm ngựa đá, đoạn dẫn hai người bám dây xuống đáy hang. Tới nơi Thoòng lia đèn bấm dẫn lối, cả ba dắt ngựa đi theo hang thẳm dị thường. Hang ăn thông bên tả, đổ xuống mãi, xuống mãi, gập ghềnh, khúc khuỷu, đá như sát bờm ngựa, vách ép sát hai bên sườn.

Đến hơn một gìơ sau, mới thấy hang ngầm mở rộng, bên tai nghe có tiếng gió lùa, lẫn tiếng súng đì đoàng kề bên vách.

Thoòng Mềnh ngửa mặt trông lên khẽ bảo:

- Tới giữa vòng vây địch rồi. Chúng đóng ngay trên đầu ta đó! Chỉ hơn một trăm thước nữa là tới cửa hang. Phía kia có cái hốc khá rộng, ta nên chờ sáng rõ hãy ra cho chúng trông rõ mặt mới được.

Ba người lại dắt ngựa đi. Hang chạy ôm chân núi, ngay giữa vòng vây, chừng non một trăm thước, quả thấy một hốc rộng ăn vòng vào núi. Ngửa mặt trông lên thấy nóc hang có chỗ cao vút, gió ngòai trời lùa vào lành lạnh. Tiếng súng vẫn vọng vào, tiếng chân ngựa khua ngay trên đầu.

Chợt Thoòng Mềnh tiến đến bên vách, chiếu đèn soi khắp nhũ đá. Đại Sơn Vương, Chí Plan còn đang lấy làm lạ vì dáng dấp cẩn trọng của họ Thoòng, thì Thoòng đã lùa tay vào một hốc đá, lấy ra một chiếc hộp đồng nhỏ như bao diêm, tiến lại trước mặt Đại Sơn Vương. Chàng tướng núi ngạc nhiên cầm

lấy hộp, tò mò mở ra:

- Mảnh họa đồ.

- Vâng, mảnh họa đồ khiến địch quân phải huy động toàn lực biên thùy vây hãm Mã Đầu Sơn. Mảnh này ghép vào mảnh của ân nhân, nó là vật báu vô cùng trong thiên hạ. Họ Thoòng đã tốn xương máu tìm được, nhưng Thoòng tài đức gì

dám giữ vật báu của nước Nam. Xin ân công rộng tình thu nạp, nếu không Thoòng chết tại hang này.

Đại Sơn Vương đặt tay lên vai tướng Thoòng, im lặng. Rất lâu, gió đêm thu lùa qua khe đá đưa vào cả tiếng súng nổ ngựa phi.

Giọng viên tướng Thần xạ chìm hẳn đi:

- Thôi Thoòng hãy đứng lên. Hình như ngoài kia, trời rạng đông rồi thì phải

Qủa vậy, ánh sáng bên ngoài lọt vào lờ mờ màu nước hến, nhưng nền hang lại ăn ngược lên cao. Hết một khúc ngoặt, hang chợt thắt lại không đầy một thước rộng. Cửa hang ngầm chỗ đó ăn ra mộ vách núi chênh vênh dựng đứng cách mấy thước tây mới có thạch bàn ở dưới. Qua nhiều bậc đá cheo leo, mới tới rừng dưới, trông qua cũng lượng cao đến mấy chục thước. Trên nóc những phiến đá lớn nhô ra như mái hiên đầy thạch nhũ và con thác đổ từ trên xuống ngay mái hiên ầm ầm, dệt thành một bức bình phong che cửa hang trong nhìn ra được, nhưng ngoài trông vào không thấy lỗ trống, nhờ đó, cửa hang chẳng khác đã ăn dưới lòng thác bạc.

Đại Sơn Vương chiếu viễn kính mới rõ là đám sĩ quan, hình như tới ăn điểm tâm trước khi khai hỏa Cả bọn vừa ăn vừa trỏ lên núi cười nói, có vẻ đắc chí lắm. Chợt lại có một tốp ba, bốn người bay ngựa tới. Đám sĩ quan vừa giơ tay chào, Voòng Chí Plan đã nói luôn.

- Kìa ! Chính tướng Roux và đại tá Gilbert. Và hình như có cả Voòng Xám anh em nữa thì phải!

- Chẳng lẽ anh Voòng lại được thúc phụ em sai đi tìm em! Nếu đi việc này, phải anh Voòng Dắt chứ..Lạ thật.

Thoòng Mềnh đã lén ra, đứng sau lưng.

- Hay lắm! Ta phải xuống thung ngay mới đươc.

Tướng Thập Vạn Đại Sơn lập tức vỗ Hắc Phong Câu lao xuống theo “Mũi tên đen” đang bay trên mỏm đá, phía sau đã vọt ra con ngựa của Đại Vương Thoòng. Cả ba con ngựa nối nhau không đầy bốn, năm thước nhưng Thoòng kìm phắt sau lùm cây rậm cố ý chờ Đại Sơn Vương vượt quá lên, mới phóng theo.

Ngựa Hắc Phong đang vọt trên thạch bàn, bất thần, chàng tướng nghe sau lưng có tiếng Thoòng quát lớn:

- Coi chừng!

Đại Sơn Vương quay phắt lại, thấy hai ngọn súng bên hữu chĩa thẳng vào lưng, giữa lúc người ngựa đang lơ lửng giữa khoảng không, tướng núi kịp thời vẩy luôn hai phát, xác quan binh nhào liền trên mép đá.

Tiếng nổ làm kinh động cả khu hậu trận. Quan binh trấn gần đấy, nhìn ra thình lình thấy mấy con ngựa như từ trên trời sa xuống, không bảo nhau, đều bật kêu lên nhất loạt, chưa kịp lảy cò thì “Ngựa trời” đã bay kề chân núi mép thung.

Voòng Chí Plan phóng đầu, theo lời dặn, cứ nơi phía tả chạy, ngoảnh lại đã thấy Hắc Phong Câu theo sát tới ngang thung, cách chỗ lều vãi bọn tướng Roux chừng non trăm thước. Đại Sơn Vương thét lớn:

- Bọn tốt đen hỏa thực kia! Khôn hồn tránh giạt ra cho tao mượn đường đi, không bỏ mạng bây giờ.

Miệng thét tay vẩy súng lia lịa khiến đám quân binh kinh hoảng bỏ chạy giạt cả vào lều, tìm súng. Tướng Roux, Gilbert trông rõ mặt Đại Sơn Vương, vội hô lớn:

- Kỵ binh đâu! Đuổi bắt tướng giặc chớ để thoát!

Lúc đó, ngựa Đại Sơn Vương chỉ còn cách tướng Roux chừng năm, sáu chục thước. Tứ bề, đạn réo, quân reo bắn vãi theo. Roux thấy ngựa tướng Thần Xạ bay chếch tới, vội giật ngựa ẩn sau lều. Còn đang hô quân tướng ngăn đánh, thì Đại Sơn Vương cùng Chí Plan đã bay ngang tới, chui lọt qua một căn lều trống, xoay phắt lưng lại, cười lớn;

- Lão tướng biên thùy! Tiếc thay có việc bận, không còn thì giờ tiếp trận với các ông. Xin nhờ Đại Vương Thoòng tiếp giúp!

Tướng Roux cả giận chĩa súng bắn theo, nhưng Hắc Phong Câu đã vọt qua dãy lều hỏa thực thẳng tuốt vào rừng nhanh như cơn gió lốc. Vượt khỏi vòng vây, Đại Sơn Vương cùng Voòng Chí Plan cứ rạp trên lưng tuấn mã, mải miết ra roi, đi một đoạn khá xa, tới chỗ có ngã ba yếu lộ thâm u, mới dừng cương chờ Thoòng Mềnh.

- A Thoòng! Giờ đã đến khắc chia tay, Thoòng ở lại ta đi, sẽ có ngày tái ngộ!

Tướng thổ phỉ râu xồm ngậm ngùi:

- Nhưng… từ nay Thoòng sao yên dạ được, tướng quân đi

- Hãy về cùng thuộc hạ, mai này, sẽ gặp nhau. Kìa! Địch quân đã đuổi tới rồi!

Thoòng Mềnh lưu luyến chẳng muốn rời, ngoảnh lại thấy bụi bay cuối đèo đánh rạp trên đầu ngựa:

- Lối mòn bên tả đưa đến cỏ phân mao, Tướng Quân, Nữ Chúa đi cho mạnh giỏi. Thoòng đứng đây nhử lạc hướng quan binh.

Hai con tuấn mã quay đầu về nẻo biên thùy sải vó để lại phía sau một tướng thổ phỉ râu xồm bâng khuâng trong sương sớm đìu hiu. Lúc đó tám vó câu tuấn mã đã vượt cỏ phân mao, đem tướng Thập Vạn Đại Sơn cùng Nữ Chúa Hoàng Su Phì về đất Việt. Hai người buông lỏng tay cương cho ngựa bước trên một miền cây cỏ hoang sơ, xa xa lác đác mái nhà sàn tựa vách núi. Chí Plan đưa mắt trông khắp núi rừng quạnh quẽ, thở một hơi dài.

- Thoát hiểm! Giờ này quan bi

binh thổ phỉ còn lẩn quẩn bên Tàu đuổi theo dấu ngựa mơ hồ … Ta nên tìm chỗ tạm nghỉ đã.

Đại Sơn Vương gật đầu trỏ về phía đèo cao bên thung:

- Chỗ kia cây cối um tùm lại có đồi xanh mướt cỏ, có lẽ tiện cả cho ngựa nữa.

Hai người thong dong băng qua cánh rừng thưa, tới đèo. Tới nơi, hai người tháo hành lý xuống, nới dây nịt ngựa, thả cho ăn cỏ và ngồi dưới lùm cây nghỉ ngơi, ăn uống. Đang uống cà phê chợt có từng loạt súng vọng về từ chốn xa. Viên tướng ngạc nhiên, đứng phắt lên, nheo mắt lắng tai nghe, dạ bồn chồn như lửa đốt.

- Thôi ta trở lại chỗ cũ còn lấy hành lý chứ!

Đại Sơn Vương ra mé đồi, trỏ tay về phía xa tít. Chàng vội chiếu viễn kính mới hay có một cánh quân đến dựng trại, khói bốc lên, có vẻ đang nấu nướng chi đó.

- Đám quân đó vừa đánh nhau với quân Trần Tắc và đã bắt được họ Trần rồi! Một nữ tướng cầm đầu coi dáng quen thuộc lắm. Lúc hai bên đánh nhau, em quan sát, bọn đó chủ ý bắt sống Trần Tắc và có lẽ đã truy kích từ dâu về thì phải.

Đại Sơn Vương sực nhớ tới mảnh họa đồ bí mật trong tay họ Trần, chàng ngẫm nghĩ mấy khắc, đoạn bảo Chí Plan:

- Chắc chúng chưa đi ngay? Ta về lấy hành lý cũng vừa!

Nói xong, hal người lộn về chỗ cũ.

- Nên hóa trang cho tiện! Cô nương nên cải nam trang. Chúng ta là hai bạn đường thổ dân.

- Sao không giả làm một cặp vợ chồng có hơn không? Và giấu súng đi như một cặp vợ chồng thường.

Câu đề nghị táo bạo của cô gái khiến chàng tướng núi không khỏi ngạc nhiên nhưng thấy vẻ hồn nhiên trên khuôn mặt hoa rừng chàng đành lẳng lặng làm theo. Trong giây lát cả hai đã gọn gàng trong bộ

quần áo thổ dân khá sang, mặt hóa trang khác hẳn, cả hai con ngựa cũng được xoa thuốc ngụy lông, ung dung sóng đôi, phóng thẳng đến chỗ đám quân lạ đang hạ trại.

Tới đầu thung mới cho ngựa bước một, tiến sát lại. Con đường mòn chạy ngoài bìa thung ăn chếch qua trại quân lạ, cách chỉ chừng trăm thước. Cả cánh quân lạ vội ngó ra, chĩa súng dè chừng bất trắc, tới lúc thấy rõ hai người không mang súng ống mới dựng súng về chỗ cũ. Hai bóng kỵ binh phi ra, hô lớn:

- Đi đâu? Sao lại bén mảng tới chỗ này! Đứng lại đã!

Hai người dừng ngựa, trông vào thấy bóng hai nữ binh. Chí Plan lễ phép cất tiếng miền núi hỏi.

- Vợ chồng tôi đến Cao Bằng! Cái lính đây là gi đấy?

Nữ binh hỏi

mấy câu, đoạn vẫy tay bảo di, đoạn quay vào chân núi. Chí Plan, theo vào luôn, Đại Sơn Vương cất tiếng gọi, rồi cũng vào nốt đuổi thế nào cũng cứ đi, đến gần nhìn rõ mặt mới chịu dừng, nằng nặc hỏi xin thuốc Tây. Đưa mắt nhìn, thấy Trần Tắc cùng mấy thủ hạ bị bắt ngồi dựa thân cây, quân lạ vừa nam lẫn nữ, kẻ đang sửa soạn bữa ăn, người băng bó thương tích. Còn đang tìm coi chủ tướng chợt thấy hai cô gái đẹp đeo súng từ chân núi bước ra. Hai cô gái hao hao giống nhau, khuôn mặt đẹp như hoa, thoáng trông đã đoán ngay hai chị em

ruột: Nữ tướng họ Cầm, thuộc quân Si Pan. Cặp nữ tướng đang đốc quân phục kín bên yếu lộ giữa hẻm, thoáng cái đã ẩn kỹ và cô êm dặn một toán nữ binh vài chục người lộn lại chỗ vừa hạ trại, xuống ngựa, kẻ nằm người ngồi có vẻ một mỏi lắm, nhiều con ngựa đã tháo cả yên, cho gặm cỏ tự nhiên.

Đại Sơn Vương vội cùng Chí Plan kiếm chỗ ẩn, chiếm chỗ cao quan sát tỏ tường, thấy thế khẽ bảo nữ tướng Hoàng Su Phì:

- Hai cô gái này định nhử địch vào cạm bẫy đây! Nhưng không biết bọn nào sắp tới?

Chí Plan chưa lên tiếng, đã thấy xa xa cát bụi bay, một đoàn quân chĩa mũi dùi phóng tới. Dừng lại cách hơn trăm thước, ngay trên đồi cao bên kia thung, dàn hàng ngang trông sang chân đồi bên này, có vẻ đang quan sát địch tình, Đám nữ binh trông thấy địch, vội vã chạy đi bắt ngựa bố trận. Lập tức, đám quân bên đồi kia nhất tề hò reo như sấm ùa xuống, đánh luôn. Nữ tướng vội thót lên ngựa hô quân vừa bắn, vừa tháo chạy, ngựa chưa kịp thắng yên. Thình lình Nữ tướng dừng phắt ngựa, khoa tay ngang đầu thét lớn:

- Lùi lại! Quân bay! Có phục binh.

Lời vừa dứt vó ngựa vừa dừng chưa kịp tháo lui, thì từ hai bên hẻm núi, từng loạt súng nổ rền, đạn bay ra người ngựa Si Pan nhào luôn một lớp hàng chục tên. Đồng thời đám nữ binh cũng lộn ngựa, bắn xả lại như mưa, dìm Si Pan rất mau vào thế tam diện thụ địch hiểm nghèo.

- Giạt cả sang vách núi! Xuống ngựa!

Cầm Mi Yến nép sau hông ngựa, dựa lưng vào vách hẻm,vừa vẩy súng lên, vừa hô binh đánh tháo. Trên sườn dá, cứ cái đầu nào ló ra, là bị đạn Mi Yến bắn lộn xuống liền. Nhờ thế, quân Si Pan rút ra gần khỏi yếu lộ rất nhanh. Thình lình có tiếng quát lanh lảnh phía trên cao:

- Giặc cái Tây Phàn! Hay coi đây!

Cầm Lình con gái lão động chủ ngửa mặt lên, thấy nữ tướng lộ diện trên mỏm đá, liền nhô khỏi hông ngựa bắn lên, nhưng đạn nữ tướng kia đã ra khỏi nòng, xoi trúng bàn tay nữ tặc. Cầm Lình vùng nhăn nhó ôm tay, Cầm Mi Yến trông thấy liền nghiến răng vẩy luôn ngọn súng lên giữa lúc nữ tướng địch đang nhìn chếch về phía Cầm Lình. Nhưng tự nhiên tay Mi Yến chới với giữa không gian, khẩu súng đã bay đâu mất, còn đang ngửa mặt ngó tìm, thì nữ tướng phía trên đã xoay lưng lại nhả luôn một phát. May Nữ Thủy Vương Hồ Ba Bể đã kịp thời hụp đầu xuống tránh kịp.

- Tạc đạn đâu thả cho rồi!

Tiếng lanh lảnh của cô nữ tướng phía trên lại quát lên, khiến Mi Yến giật mình chưa kịp nhảy sang bắn trấn cho Cầm Lình thì liền mấy quả tạc đạn từ trên đã ném xuống. Nữ tặc vội nhào xuống chân ngựa, chỉ thấy liền mấy tiếng nổ vang, nhói một bên mình, rồi cả thân hình con ngựa đổ đè lên trên, giữa vùng khỏi tóa um còn nghe tiếng Cầm Lình gọi lớn:

- Cầm muội đâu! Cầm muội?

Nữ tặc thét lớn:

- Rút mau không khốn cả? Đánh cồng hú gọi đoàn báo tiếp cứu cho mau!

- Anh chị em! Nhảy xuống đánh giáp lá cà chớ để hai con nữ tặc chạy thoát.

Tiếng tướng thét, quân hò vẫn nổi lên vang động, khói mù bốc che yếu lộ như sương lam. Không thấy tạc đạn nổ nữa, lại nghe có tiếng người từ trên nhảy xuống. Cầm Mi Yến mới hấtlung xác ngựa phục sát vách đá, định thần quan sát, chỉ thấy lố nhố người ngựa rầm rập ngược xuôi giữa vùng khói tỏa, lại nghe phía đầu hẻm, vẫn còn tiếng súng, liền men vách lần ra. Vừa khỏi vùng khói tỏa, giật mình toan quay ngược thì bốn bề ập lại từng đoàn địch quân, gươm súng chĩa vào tua tủa trông ra không bóng quân gia, yếu lộ đã nghẹt đầy địch thủ. Nữ Thủy

Vương Hồ Ba Bể đành nghiến răng quay luôn mũi súng vào ngực, lảy cò. Nhưng một bàn tay đã gạt mạnh, đạn nổ lên trời, nữ tướng địch đã từ đâu vọt tới, cười khanh khách:

- Vội chết sao được! Bản cô nương còn có điều muốn hỏi. Chị em đâu ! Trói nữ tặc lại cho ta! Và truyền nổi hiệu thu quân mau.

Lúc đó, dưới hẻm, bọn gái lạ đang thu binh, chợt thấy Cầm Lình dẫn quân trở lại. Cầm Lình tay cầm một cây roi có tua ngũ sắc, đứng thẳng trên lưng ngựa vừa khoa lia lịa, vừa hú lên những tiếng man rợ, lạ lùng. Đoạn hô binh tiến lên, tả hữu có Nhị Cô, Tam Cô bay thẳng đến hẻm núi hình như bất chấp cả địa hình.

Trận đánh vừa mở, chợt ngựa bên phe đôi gái lạ, thi nhau hí vang, hoảng chồn, rồi có tiếng thú gầm ghê rợn. Ngạc nhiên nhìn kỹ, mới biết cánh quân đó bất ngờ bị một đoàn báo gấm từ rừng rậm xông ra tấn công chớp nhoáng vào bên sườn. Nguy nữa, là đám quân này đang bám chặt yếu lộ làm điểm tựa tác chiến, hai bên toàn cay cối, đá tai mèo, đoàn thú dữ cứ vọt ra táp cấu xé, rồi lại lẩn vào chỗ khuất, lại thêm chỗ hẹp người ngựa khó xoay trở, mặt trận đôi gái lạ này cả loạn ngay. Và như đã nắm được yếu tố thủ thắng,Cầm Lình, Nhi Cô, Tam Cô cứ dẫn binh bay ngựa ngang hẻm vừa bắn thốc vào, vừa cố ý không cho địch quân xông ra ngoài thung tráng.

Đang đốc chiến phía trước, thấy hậu quân biến loạn, cô chị vội hô binh tiến mau ra nhưng đã bị quân Si Pan chận gắt, đành lộn ngựa lại thét lớn:

- Bật hồng lên đánh xua thu dữ, hậu đổi thành tiền rút qua bên kia hẻm!

Quân gia lập tức, xuống ngụa, bật lửa, đuổi thú, nhưng thú đã được luyện quen không sợ lửa, cứ tiếp tục chồm táp người ngựa rất hăng. Đang lúng túng mới lui được vài chục thước lại nghe hậu trận nổ vang rền, Rồi một cánh quân Si Pan nữa xốc tới, đánh bừa hai đầu dồn quân nữ tướng vào giữa cho thú dữ cấu xé.

- Phải cứu hai nàng kia mới được! Ta ở ngoài vòng có thể đánh thốc sau lưng Tây Phàn!

Đại Sơn Vương đứng phắt lên, Chí Plan đã giơ tay can lại, mỉm cười.

- Bất tất phải nhọc lòng!Chỉ cần xua lui đoàn thú dữ là xong, hai nàng đó đủ sức đánh quân địch rồi! Ông đã quên em vốn sinh trưởng nơi sơn cước, đã từng nuôi hổ báo thay chó giữ nhà ư?

Nàng quay bảo nữ binh nãy giờ nằm êm kinh sợ:

- Mau xuống bảo nữ tướng nhét giẻ vào miệng cô gái Hồ Ba Bể trên này sẽ đuổi thú giúp cho!

Hai nữ binh ngạc nhiên nhìn “Cô Thổ” nhưng cũng vội vã băng xuống lộ hẻm.

Tiếng Cầm Mi Yến vụt tắt, trên ngọn đồi,Nữ chúa Hoàng Su Phì liền khum tay miệng, rú lên một tràng tiếng dị kỳ man rợ, lanh lảnh vang khắp chiến trường. Lập tức, đoàn báo gấm ngừng tấn công nhìn cả về nẻo có tiếng hú và dưới hẻm, thoáng cái đã thấy những hình vàng đốm lao vùn vụt giữa nền bụi xanh, bay hẳn lên ngọn đồi. Rồi mùi tanh hôi theo hơi gió thốc vào mũi Đại Sơn Vương, trông ra đã thấy lá cây sào sạc, báo dữ từ các nơi xông tới. Không chậm trễ,Voòng Chí Plan ra hiệu cho Đại Sơn Vương nhảy phắt lên yên ngựa lao xuống bên kia đồi, vừa phi vừa hú dụ đoàn thú băng theo.Ra khỏi vùng trận, Đại Sơn Vương ngoảnh lại thấy từng đợt “Sóng gầm” dập dồn bèn gò cương bảo Chí Plan:

- Đoàn thú rừng lợi hại vô cùng, cô nương sao không thu phục mà dùng?

Chí Plan lắc đầu:

- Muốn thu phục phải dùng ngải riêng.Phải giải ngải của Cầm Mi Yến mới được.Giờ chỉ tạm dùng tiếng hú lùa chúng theo, nếu đến gần, không có ngải quyện chúng sẽ nổi tánh rừng ngay! Thôi! Chỗ này chúng lạc dấu được rồi!

Nói xong, Chí Plan im bặt tiếng hú, cùng Đại Sơn Vương giục ngựa vào khu rừng rậm gần đấy, chạy thêm một quãng xa, mới lộn lại chiến trường. Còn đang dòm tìm vết chân ngựa, chợt thoáng thấy bóng một kỵ sĩ từ phía biên thùy tế ngựa tới thung. Đại Sơn Vương bèn cùng Chí Plan ẩn luôn vào bụi cây bên hẻm. Ky sĩ chạy đến khu trận, dừng lại, đảo mắt nhìn quanh và cho ngựa bước thẳng đến hẻm, vừa đi chăm chú quan sát từng thân cây, vách đá, mặt cỏ, có vẻ muốn tìm một dấu vết chi. Đang chăm chú ngó quanh, chợt chàng ky sĩ tiến ngựa lại sát vách đá gần đấy, ngửa mặt trông qua vù gật gù lẩm bẩm:

- Có thế chứ! Không ngờ bắt được cả Trần Tắc lẫn nữ tặc họ Cầm!

Và đảo mắt một vòng chàng ta giục ngựa đi thẳng qua bên kia hẻm. Đại Sơn Vương, Chí Plan tiến ra, ngó vách đá, thấy có mấy nét mới đục nham nhở có vẻ mật hiệu chi đó, liền cùng nhau theo hút người ky sĩ luôn. Cứ một quãng người đó lại dừng tìm mật hiệu, noi theo Tây Bắc mà đi mãi. Chừng một giờ sau ngựa, người vào một miền hoang vắng, dừng lại. Đứng trên cao nhìn xuống. Đại Sơn vương, Chí Plan thấy lố nhố người ngựa bên rừng, cả mừng nhận ra chính cánh quân của hai cô gái lạ bắt Trần Tắc đem đi ban nãy. Chàng ky sĩ kia vào thẳng giữa

chỗ trú quân, có vẻ quen thuộc lắm. Qua ống viễn kính, hai người thấy cặp nữ tướng ra đón đưa chàng vào một căn lều xinh xắn dựa vào vách núi ngay dưới lùm cây ven suối. Trần Tắc và Cầm Mi Yến đã được cởi trói ngồi gần đấy có mấy ngọn súng chĩa canh cẩn trọng.

Chờ mãi đến chiều vẫn không thấy cánh quân đó lên đường, Đại Sơn Vương bàn với Chí Plan toan lần xuống vách núi gần lều, thì vừa kịp thấy người kỵ sĩ lúc nãy lên ngựa đi, mang theo cả Trần Tắc cùng một tiểu đội vệ binh, Cả mừng Đại Sơn Vương, Chí Plan theo sát liền. Đi quanh co một lúc, như muốn phòng hờ đánh lạc dấu người lạ đổi hướng nhiều lần cuối cùng đi về nẻo thị trấn Cao Bằng. Nhưng rồi người lạ xuyên qua bản, đưa Trần Tắc ra ngọn núi cuối bản, có căn nhà dựa vách đá trông ra nương ngô. Đứng xa, thấy lát sau cả bọn đã tháo yên, dắt ngựa vào tàu, Đại Sơn Vương biết rõ bọn lạ đêm nay nghỉ tại đó, nên chàng cùng Chí Plan đi tìm quán trọ trú, chờ đêm sẽ hành động. Cuối canh hai, cả hai tìm đến nơi giam Trần Tắc, buộc ngựa cuối núi, lần đến bên căn nhà sườn núi nghe động tĩnh.
Chương 19: Phù Thủy Thần Thơ-kho Tàng Tôn Thất Thuyết

Ánh lửa từ trong hắt ra, vàng khè. Ngay trước cầu thang nhà sàn, một gã đàn ông lực lưỡng xách súng đi lại canh phòng. Đảo một vòng quanh rộng, Đại Sơn Vương khẽ bảo Vòng Chí Plan:

- Cô nương đứng trấn bên ngoài đề toi đột nhập vào trong xem!

Vừa định băng đi, chợt nghe có tiếng vó câu khua xào xạc trên lá rụng. Phục sát mặt đất, nhìn ngược lên, trong đêm mờ nhạt hai người thấy một kỵ sỹ từ phía bản phóng tới, dừng trước cầu thang, cách chỗ hai người nấp không đầy mười thước.

- Đảng trưởng đâu?

- Bẩm, đang xem sách. Cô nương đã về!

Kỵ sĩ xuống ngựa ném dây cương cho gã đàn ông, và bước vội lên cầu thang. Voòng Chí Plan khẽ thì thầm:

- Nguyệt Tú!

Trong nhà, chàng kỵ sĩ hồi sáng ngồi bên chiếc bàn gỗ tạp sơ sài trên có thắp thoi lửa trám. Đối diện là Nguyệt Tú. Hai người đang nhìn ngọn lửa chập chờn, dáng suy tư. Chợt chàng trai đứng lên đi đi lại lại bên bàn, vùng bảo Nguyệt Tú:

- Phải hành động gấp.

Nấp bên ngoài, Đại Sơn Vương khẽ bảo Voòng Chí Plan:

- Không phải người tình Nguyệt Tú! Chà! Nhưng giấu sao nổi mắt ta! Giờ họ lập mưu đánh tháo Trần Tắc rồi theo sát tìm bảo vật. Cô nương tính sao?

Cô gái biên thùy nhoẻn miệng cười, như đã đoán rõ ý chàng.

- Còn chờ gì nữa! Nếu muốn tháu tay trên, thì đêm nay chắc cũng không lạc dấu họ Trần đâu! Mai lên thẳng Su Phì cũng được.

Ca hai cùng cười lặng lẽ nương bóng tối, theo sát Nguyệt Tú. Ra khỏi khu nhà sàn, cô gái thác Cầu Mây cho ngựa khoan thai bước một, cố ý chờ hai tên thủ hạ tiến trước khá xa. Nguyệt Tú theo lối mòn chạy dọc chân núi, đi chừng vài trăm thước đến một nơi rậm rạp dừng lại ẩn kín. Đại Sơn Vương cùng Voòng Chí Plan vòng nương vượt khỏi chỗ Nguyệt Tú nấp, bám sát hai gã thủ hạ phía trước.

- Thôi ! Ta đứng đây chờ chúng giải Trần Tắc tới được rồi !

Quả nhiên lát sau, đã nghe có tiếng vó ngựa bước đều, trông ra thấy hai gã lực lưỡng điệu Trần Tắc tới. Người cha Phượng Kiều bị bịt mắt, trói tay ngồi trên lưng ngựa, hai gã áp kèm trước sau bước một. Mấy cnn ngựa bước chậm qua chỗ Chí Plan, Đại Sơn Vương ẩn.

Voòng Chí Plan lăn vèo sang bên kia lối mòn. Đại Sơn Vương vẫn bước theo Trần Tắc. Chợt bàn tay viên tướng lạc thảo vừa khoa trên đầu, đã thấy từ trong bụi rậm hai bên một cặp thòng lọng cùng lúc bay vút lên, chụp xiết ngay cổ họng hai gã điệu Trần Tắc, giật phăng xuống chân ngựa. Hai gã thình lình bị “trăn gió” cuốn ngã, chưa kịp trở tay, đã thấy hai bóng đen theo dây vọt lên, đánh luôn vào đỉnh đầu gục ngất, êm không. Một cơn gió thoảng rào cành lá, thình lình hai bóng người từ trên cây nhảy vụt xuống chụp lấy Đại Sơn Vương nhanh như hai con báo chụp mồi. Nhưng Đại Sơn Vương đã hụp xuống bên cổ ngựa cho địch thủ mất đà và quài tay bắt ghì phăng kẻ bên yên ngựa trong một thế võ khóa Nhật tuyệt vời, tướt luôn súng cô nàng và bất thần ôm ném nhẹ nữ thủ lãnh Cầu Mây xuống mặt cỏ.

Vừa quài tay quất ngựa Trần Tắc phóng đi, chàng tướng núi cùng Voòng Chí Plan vọt ngựa theo như gió cuốn. Được vài chục bước ngoái lại thấy Nguyệt Tú cùng nữ tùy tướng vừa vùng dậy, chàng bèn ném trả lai khẩu súng và khoa tay chào lia lịa. Nguyệt Tú chạy vụt lên bắt lấy khẩu súng vừa thẹn vừa tức giơ lên chưa kịp lẩy cò, đã thấy mất hút ngựa kẻ lạ sau lối mòn, chỉ còn hắt lại phía sau những tiếng vó câu giòn khua giữa những chuỗi cười khanh khách trêu ngươi. Đại Sơn Vương, Voòng Chí Plan kèm Trần Tắc vào rừng, dùng tiếng Thổ từ tốn bảo:

- Miền này không xa thị trấn Cao Bằng mấy, chắc ông quen rừng có thể về nhà yên ổn. Xin được chia tay!

Dứt lời, chàng cùng Chí Plan ngoắt luôn tay cương về nẻo khác. Nhưng qua khắc sững sờ,họ Trần đã nắm lấy dây cương, giọng cảm động:

- Kìa, sao người đã vội… chẳng hay…

Vừa nói Trần vừa chăm chú ngó hai kẻ lạ mặt, toan gặng hỏi nữa, đã nghe phía bản xa có nhiều tiếng cồng dồn dập rồi ánh hồng bập bùng trong đêm tối cuốn tới đầu thung. Đại Sơn Vương vội giục:

- Chúng sắp sục tới đây, ông nên chạy ngựa về để mặc chúng tôi đánh lạc hướng bọn chúng cho!

Lời vừa dứt, tướng núi đã ngoắt ngựa về phía có ánh lửa chập chờn, phóng thẳng. Trần Tắc cũng vội tế ngựa về căn cứ, thoáng cái đã mất hút giữa đêm rừng hoang dã. Phóng gần đến đầu thung, lập tức Đại Sơn Vương lộn vòng đường núi, đuổi theo Trần Tắc:

- Họ Trần đã mất dạng. Rừng tối thâm u.

Đại sơn vương mỉm cười:

- Không sao Tôi đã dự phòng cả rồi

Miệng nói, tay chiếu đèn bấm, rê nhanh một vòng cỏ rộng, miệng chợt khẽ reo vui:

- Có thế chứ! Đã tìm được lối ngựa Trần Tắc đi rồi.

Voòng Chí Plan trông xuống cỏ thấy một đường thóc vãi lấm tấm tít vào rừng sâu, mới biết chàng tướng núi đã buộc ngầm một bì thóc trên lưng ngựa Trần Tắc từ lúc nào rồi giờ cứ việc lần theo vết thóc vãi chẳng khác Trọng Thủy theo vết lông ngỗng Mỵ Châu xưa. Nhưng được chừng vài dặm, chợt thấy vết thóc chạy ngang chạy dọc rơi vãi lung tung lộn bậy, tới bờ một con suối đọng lại thành một chỗ lớn, rồi… mất dấu. Đại Sơn Vương tần ngần nhìn khắp vùng suối rừng suy nghĩ mấy khắc đoạn gật gù bảo Voòng Chí Plan.

- Trần Tắc tinh khôn lắm, chắc đã đủ thì giờ kiểm soát lại mình ngựa đây! Cho thóc đọng cả chỗ này. Trần Tắc muốn đánh lạc dấu kẻ theo sau. Nhưng che thế nào được mắt ta! Cô nương có nghĩ Trần Tắc noi theo suối nước không?

Voòng Chí Plan lắc đầu:

- Lối nghi binh này chỉ lừa được kẻ thấp trí thôi! Chắc Trần Tắc không đi đường suối đâu!

Đại Sơn Vương điềm nhiên giọng rắn đanh:

- Để dấu thóc bên bờ, tất Trần Tắc phải theo dòng suối. Họ Trần vốn tinh quyệt, tất dư hiểu kẻ theo bám phải tay túc trí, tính cao, sẽ không chui lần theo dòng suối nên Trần đã chọn nước cờ thấp nhất, Trần noi theo đường suối đó.

- Cô nương hãy xuôi dòng dò vết, tôi đi ngược nước. Dòng suối chảy về khu cứ địa của họ Trần đấy. Nếu không thấy dấu nước thì hãy ngóng bên bờ, chắc cô nương thừa rõ chỉ còn ngửi mùi cỏ dập nhầu. Sớm mai, gặp nhau tại trấn Cao Bằng!

Hai người lập tức chia tay theo hai chiều suối đi vào đêm tối.

Voòng Chí Plan xuôi dòng lội ngựa mãi, vừa đi vừa chiếu đèn bấm quan sát kỹ Iưỡng từng tấc cỏ ven bờ, tuyệt không thấy dấu ngựa lên. Trên mặt cỏ, sương đêm vẫn còn đọng đều, chẳng có chỗ nào có vết giẫm nhầu khác lạ. Tới căn cứ của Trần Tắc, thình lình gặp người tuổi trẻ mặt trắng cùng Nguyệt Tú dẫn đám đông thủ hạ về, nàng vội nấp sau bụi chờ cả bọn đi qua, mới biết Nguyệt Tú vừa thẳng tới đất Trần Tắc dò xét, nhưng không thấy Trần Tắc đâu, đành rút quân tìm lối khác. Nữ chúa Hoàng Su Phì đi ngựa loanh quanh cố tìm một lát nữa vẫn không thấy vết khả nghi đành thẳng đường tới thị trấn, vừa lúc sang canh tư.

Nghỉ qua cho đỡ mệt, sớm mai nàng đã thắng ngựa, chậm bước ra khu chợ, theo lời dặn, tới một tửu quán khách trú ngồi chờ Đại Sơn Vương. Chín giờ. Rồi mười giờ, vẫn không thấy bóng viên tướng Thập Vạn Đại Sơn. Nữ chúa Hoàng Su Phì vẫn ngồi im bên bàn trông ngóng, ruột gan đã bắt đầu nóng như lửa đốt. Đúng lúc lo âu, chợt thấy một tốp người mặc quần áo H⬙mông từ xa đi ngựa tới, đến trước quán, dừng lại, đưa mắt nhìn mấy giây rồi cùng xuống ngựa, bước vào. Voòng Chí Plan nửa mừng nửa ngạc nhiên, nhận ra người con trai cả của vua H mông, Voòng Dắt. Cô cháu gái vua H mông đứng phắt lên, vừa lúc Voòng Dắt cùng thuộc hạ xăm xăm bước lên.

- Kìa Chí Plan eml

- Anh Voòng!

Voòng Dắt cả mừng ngó cô em, mặt tươi hẳn lên:

- Sao em ăn mặt lạ thế này? Không có vòng tai quen với cái miệng hay cười núm đồng tiền anh cũng ngờ ngợ mất!

Chí Plan nhoẻn cười, kéo ghế cho anh họ ngồi:

- Anh đến đây bao giờ thế? Thúc phụ chắc mong em lắm,à anh? Em có gặp anh Voòng Xám bên Tàu đi cùng tướng Roux quân đoàn lưu động.

Người con cả Vua H mông vùng nắm lấy tay con gái, giọng đượm lo âu:

- Thúc phụ mang bệnh, nóng lòng, lại thấy Voòng Xám đi, nên vội sai anh đi tìm em. Nghe tin em bị thương bên Thác Bạc Đầu mà.

Chí Plan vội kể qua mọi chuyện đoạn bâng khuâng nhìn ra đường thị trấn:

- Đại Sơn Vương cùng em thoát khỏi vòng vây quân đoàn biên giới. ông ấy hẹn gặp em nơi này, nhưng sao vẫn không thấy, chắc có chuyện… gì đây?

Hai anh em họ Voòng còn đang bàn luận, chợt một viện tùy tướng khẽ kêu lên:

- Kìa… có ai cỡi con ngựa Hắc Phong tới hình như Đại Sơn Vương.

Chí Plan, Voòng Dắt vội nhìn xuống, quả nhiên thấy một người đi ngựa tới dáng dấp mệt mỏi ủ rủ, quần áo tả tơi thân hình ngồi bất động trên yên, đầu cúi nhìn bờm ngựa, như kẻ bị thương nặng gần kiệt sức.

- Trời! Đúng Đại Sơn Vương rồi. Sao như người mất hồn thế này?…

Voòng Chí Plan biến sắc, bật kêu lên, chạy vội xuống cầu thang đến bên ngựa Đại Sơn Vương. Viên tướng Thập Vạn Đại Sơn vẫn ngồi im như pho tượng đất, đầu vẫn cúi tháp, thấy Chí Plan chạy tới, chàng chậm chạp ngẩng mặt lên, cặp mắt trừng trừng nhìn Nữ Chúa Hoàng Su Phì ngơ ngác như mất hồn.

Càng kinh ngạc, Chí Plan quên cả tỵ hiềm, nắm luôn lấy dây cương, dìu chàng tướng núi xuống yên, hấp tấp lần khắp mình chàng, muốn tìm một vết trọng thương. Nhưng quần áo tuy lấm láp đất cát bụi, ẩm sương đêm nhưng không một dấu đạn xuyên, dao chém.

- Ông… ông làm sao thế này?

Đại Sơn Vương vẫn mở to mắt ngơ ngác ngó Nữ Chúa H mông, cặp môi khô mấp máy không thành tiếng, hai bàn tay tần ngần sờ báng súng bên sườn, rút ra lật nghiêng lật ngửa nhìn như một người cuồng trí. Voòng Dắt cũng vừa xuống tới, vội cùng cô em họ dìu tướng núi lên gác. Đại Sơn Vương ngồi phịch xuống ghế nhìn mọi người, chợt khẽ hỏi:

- Voòng công tử vừa tới?

Không đợi anh đáp lời, Voòng Chí Plan rót vội chén trà đưa chàng, đỡ lời giọng lo lắng:

- Vâng anh em vừa tới tìm chúng ta. Nhưng…ông làm sao thế này? Kìa mà sao tay ông lạnh quá vậy? Để em bảo chúng đưa chút rượu lên ông dùng cho ấm nhé?

Đại Sơn Vương ngồi yên, không nói nửa lời. Tửu bảo mang rượu lên. Voòng Chí Plan đỡ lấy rót cho chàng một ly nhỏ. Uống một hớp cạn, tướng núi liền đặt nhẹ ly rượu, rót luôn mấy ly uống sạch, cạn đến nửa chai, mới đặt xuống bàn mím chặt vành môi, cúi nhìn xuống sàn. Chí Plan đoán chắc có chuyện gì quan hệ xảy ra nên vẫn đứng bên ghế Đại Sơn Vương, ra hiệu cho mọi người im lặng khỏi khuấy động lòng người đàn ông giang hồ bối rối. Mấy phút sau chợt chàng thở dài, ngẩng lên nhìn anh em họ Voòng mắt tối sầm như có mây mờ bao phủ, giọng não nùng vô hạn:

- Đêm qua… tôi bắn chết Trần Tắc rồi…

- Bắn chết Trần Tắc? Trời…

Đại Sơn Vương nhìn chai rượu hồ vơi giọng buồn mênh mông, lẩm bẩm như nói để mình nghe:

- Hai phát liền, trúng tim, Trần nhào từ trên ngọn núi cao xuống vực sâu muôn trượng. Đến sáng mới tìm được xác Tràn giập nát, đầlu vỡ làm mấy mảnh, thân hình, quần áo rách bươm như bị băm vằm vì nhũ đá tai mèo phanh xé…

Giọng run hẳn lên, viên tướng bách chiến quơ bàn tay lạnh ngắt nắm lấy chai rượu, thở mạnh, một tay khoa trước mặt như muốn xua đuổi hình ảnh thảm thê. Rắc. Từ lòng bàn tay tướng núi một tiếng sạo gợn phát ra, chàng gục trán xuống bàn mệt mỏi.

Mọi người đưa mắt nhìn nhau và tình cờ đều nhìn cả xuống mặt bàn. Một giòng máu đỏ thắm từ lòng bàn tay Đại Sơn Vương ứa ra, như chảy tự trái tim rạn nứt. Voòng Chí Plan, Voòng Dắt lật đật nắm lấy tay chàng tướng núi gỡ ra. Nước rượu tràn trề, chai thủy tinh đã bị bóp giập vỡ toang từng mảnh, lòng tay tướng núi đỏ lòm những máu.

- Trời…ông hãy bình tâm!

- Ông Hồng Lĩnh…

Voòng Chí Plan cuống quít rút khăn quấn bàn tay bị mảnh chai xẻ đứt. Viên tướng núi từ từ ngẩng mặt lên, gạt nhẹ tay Chí Plan ra, làm hiệu cho mọi người ngồi xuống, đoạn nén buồn, kể sơ lại mọi việc.

Lúc đó mới rõ sau khi tạm chia tay Chí Plan, Đại Sơn Vương ngược dòng tìm dấu ngựa Trần Tắc, gần hết canh năm mới gặp. Họ Trần vào một vùng núi non hiểm trở nẻo biên giới, tới một căn cứ bí mật có mười lăm thủ hạ trấn giữ. Đại Sơn Vương lọt vào căn cứ, theo lòng hang thông lên một ngọn núi, gặp Trần Tắc giữa lúc Trần Tắc vừa lấy trong hốc đá ra một chiếc hộp nhỏ. Lúc đó Đại Sơn Vương tới cửa hang thông, cách Trần Tắc chỉ chừng hai mươi thước cao, vô tình giẫm phải một nút bấm ngầm, khắp hang đèn thình lình bật rọi thẳng vào mình giữa tiếng chuông reo.

Chàng tướng núi giật mình chưa kịp ẩn tránh, đã thấy hai, ba tên thủ hạ Trần Tắc từ sau xốc tới, và Trần Tắc nghe động quay nhìn xuống cửa hang, vừa thấy bóng người là rút súng luôn, ngay lúc Trần Tắc đứng chênh vênh ngọn núi. Trước nguy cơ, hai bàn tay Thần xạ vụt phản ứng như máy đánh vào báng súng và hai ngọn súng thần xạ đã kịp thời khạc đạn vào tim Trần Tắc trước khi súng Trần nhả đạn. Nhìn thân hình Trần Tắc đổ xuống vực sâu chàng tuổi trẻ hoang mang chạy luôn ra bờ vực quên cả thủ hạ Trần Tắc đang xông ra. Mãi trông xuống vực, quay ra đã thấy chúng vây quanh, quát mấy cũng không chịu lui, tôi phải bắn trọn hai băng đạn mới rảnh

tay tìm lối xuống vực sâu. Chôn xác Trần xong, đi mãi trong rừng… Phượng Kiều! Đang bình tĩnh kể, chợt Đại Sơn Vương vùng bật lên gọi tên người yêu, mặt ngơ ngác như kẻ mất trí. Anh em Voòng Chí Plan phải hết lời an ủi, chàng mới lấy lại bình tĩnh cùng họ Voòng rời Cao Bằng xuyên nẻo Hà Giang, tới gặp Chúa H⬙mông Hoàng Su Phì.

Suốt mấy ngày đi đường ít nói, cười, hình như luôn luôn bị cái chết của họ Trần ám ảnh, lại thêm Phượng Kiều mất tích phương xa, chàng tướng núi càng trở nên lầm lỳ, như cảnh chiều bặt gió chờ đợi một cơn dông bão phũ phàng. May nhờ có Voòng Chí Plan luôn luôn bên mình săn sóc, an ủi, nên chàng cùng khuây khỏa đôi chút. Tới gần địa đầu Hoàng Su Phì ba người đang cùng bọn tùy tùng rong ruổi trên đường mòn, chợt Đại Sơn Vương vùng thấy xúc động trong lòng, bèn dừng phắt ngựa lại, đảo mắt nhìn khắp vùng cây cỏ hoang sơ.

Voòng Chí Plan, Voòng Dắt vội ghìm cương, ngạc nhiên ngó viên tướng núi:

- Có chuyện gì đó, ông?

Đại Sơn Vương vẫn nhìn nắng chiều le lói đầu thung lẩm bẩm.

- Tự nhiên tôi thấy… bồn chồn lạ… Hình như linh tính báo có triệu chứng bất thường?

Nữ tướng Hoàng Su Phì vội ngoắt luôn ngựa lại, nhìn Đại Sơn Vương. Viên tướng đưa mắt trông khắp miền đồi núi chập chùng đoạn quay phắt ngó Chí Plan:

- Linh tính chưa khi nào hoảng báo. Trước mặt, khéo có phục binh!

Chí Plan nhìn theo tay chàng trỏ, trong nắng quái chiếu thu, dăm cánh chim rừng khoan thai bay ngang nẻo đường mòn xa xa.

- Chim chóc không hề bay loạn, lẽ nào đất Su Phì lại có địch quân?

Chí Plan lẩm bẩm khẽ, dáng phân vân, chợt ngẩng phắt nhìn Đại Sơn Vương, mắt phượng tròn xoe:

- Có phục binh nẻo trước! Bất trắc đã gần kề, phải mau theo đường khác mới xong !

Không chậm nửa giây, Voòng Chí Plan liền ra hiệu cho mọi người bỏ lối mòn, rẽ ngựa luôn vào rừng rậm. Nàng băng ngựa đi luôn, được mấy bước Đại Sơn Vương cũng vọt lên theo. Hai người bay ngựa chếch mấy cánh rừng, rồi mới tiến về nẻo đường mòn lúc nãy, đến cách chừng hơn trăm bộ bèn tiến lên một ngọn đèo cao trông thẳng xuống đường mòn. Vừa chiếu ống nhòm quan sát, Voòng Chí Plan đã giật mình bật khẽ:

- Quả không sai? Có binh phục bên kia hẻm núi thật! Hẻm núi đó, em thuộc từng 1ùm cây bụi cỏ, làm gì có cây xanh đậm mùa này!

Đại Sơn Vương cau mày gật đầu:

- Người ngựa chúng ngụy trang cẩn thận lắm nhưng

không biết quân nào dám ngang nhiên xâm nhập đất Su Phì? Phải đến gần coi.

Hai người bèn buộc ngựa nương bờ bụi bên đèo, lần xuống hẻm núi, nấp nhin ra. Cành lá ngụy trang rung rinh, thỉnh thoảng lại di động. Hai người nấp chỉ cách hẻm hơn bốn mươi thước, phía dưới trống trơn, nên không quan sát được nữa. Đang lúc băn khoăn chợt nghe có tiếng vó ngựa từ nẻo Su Phì phóng tới. Cả hai chiếu viễn kính coi, thoáng cái đã thấy một bóng kỵ sĩ hiện trong ống kính. Một người đàn ông mặc quần áo H⬙mông dáng lực lưỡng mặt bịt vải kín mít, chỉ hở có cặp mắt, khăn chàm chít nếp sát chân mày. Ky sĩ tới giữa vòng quân phục, lập tức, sau một mô đá một người cưỡi ngựa ngụy trang tiến ra, hai đầu ngựa chụm sát vào nhau, cả hai nói gì không hiểu, chỉ thấy luôn luôn trỏ tay ra phía biên khu, chỗ bọn Đại Sơn Vương vừa đi tới. Không đầy nửa phút kỵ sĩ bịt mặl cùng ky sĩ nguy trang sóng hàng nhau tiến lên trước hẻm, vừa lúc có một người ngụy trang nữa bay ngựa tới, chỉ tro, bàn bạc chi rồi cả ba lập tức cùng ẩn sau mô đá.

Voòng Chí Plan buông viễn kính nhìn Đại Sơn Vương, giọng đượm buồn:

- Ông có nhận ra người bịt mặt cao lớn không?

Chàng tướng núi gật gù:

- Trông quen lắm… Dáng coi giống…

Chí Plan khẽ thở dài:

- Thúc phụ em quả tính không sai. Anh họ em vẫn ngầm liên kết với tên tướng Pháp… Ta đi thôi! Ông…

Hai người lộn ngựa về chỗ Voòng Dắt, đoạn cả bọn xuyên qua vùng quân phục tới sơn đô họ Voòng, lúc hươu nai đã kêu lạc giọng ngoài rừng rậm Anh em Chí Plan đưa Đại Sơn Vương vào thẳng nhà Voòng Dắt, đoạn hai anh em lập tức đến yết kiến Chúa H mông. Tướng núi vừa thay y phục xong thì Voòng Chí Plan trở lại:

- Sớm mai, thúc phụ em muốn được gặp ông. Giờ ông hãy nghỉ cho lại sức. Em còn phải đi bắt anh Voòng Xám đã, maí sẽ tới thăm ông.

Nói xong, cô cháu gái Chúa H⬙mông thót lên ngựa dẫn một tiểu đội binh cận vệ thủ túc, chạy bay vào đêm tối để lại trong lòng viên tướng Kinh nỗi bâng khuâng thắc mắc lạ lùng về thái độ của họ Voòng biên giới.

Choàng chiếh áo dạ rộng lên mình, tướng Thập Vạn Đại Sơn theo Voòng Dắt xuống sàn. Vùng sơn đô vẫn nằm im lìm trong sương sớm, tiếng gà rừng vọng về, chìm nổi gần xa quyện lấy vài nhịp chày “Loáng” gạo.

Hoàng Su Phì về mùa thu, buổi sáng lạnh như tiết đông thiên. Bên cạnh viên tướng núi, người con cả vua H⬙mông cúi đầu bước đều, vẻ băn khoăn khó hiểu hiện rõ trên khuôn mặt gân guốc. Chợt từ một căn nhà lớn, một người tuổi trẻ H⬙mông xăm xăm bước ra nghiêng mình chào và điềm nhiên đì kèm một bên tướng lạc thảo. Nhận ra ngay Vòng Nhì, Đại Sơn Vương cũng nghiêng mình đáp lễ, càng thầm lấy làm lạ vì thái độ của người con thứ vua H⬙mông, vẻ mặt cũng khó hiểu như anh. Tới

gần tư dinh, Đại Sơn Vương kín đáo đưa mắt một vòng rộng, thấy vệ binh trấn quanh có vẻ khác thường liền dừng lại:

- Công tửl Đêm qua Chí Plan cô nương ra biên khu chưa về?

Hai người con Chúa H⬙mông nhìn nhau, Voòng Dắt lưỡng lự mấy khắc, trầm giọng:

- Chắc có việc chi, chưa về. Tôi đã sai em Chí Plan đi tìm… Mời tướng quân! Thân phụ chúng tôi đang nóng lòng hội kiến.

Viên tướng núi nhếch miệng cười, bất ngờ buông gịong lạnh khô:

- Tam công tử đang chờ quanh đây bắt tôi trao cho tướng Roux. Chí Plan tìm ngoài biên k

khu sao gặp!

Hai anh em họ Voòng bất giác ngó quanh và cùng quay nhìn viên tướng núi ngạc nhiên chưa kịp lên tiếng hỏi, thì chàng tướng núi đã khép vạt áo choàng, tiến lên vẻ mặt gan lì như sẵn sàng chờ đợi bất trắc. Cả ba qua cổng dinh, tới thẳng khu nhà khách. Tùy tướng thuộc viên rạp mình chào. Anh em Voòng dẫn Đại Sơn Vương vào gian phòng khách rộng, gần chỗ vua H,mông.

Hồi đại hội biên thùy chàng đã tới đây, gian phòng giờ vẫn như trước, trên vách treo đây gươm súng. Lại vị quan già cùng hai viên tùy tướng, vệ binh bước ra, tướng Thần xạ tháo dây súng ngang sườn đặt lên bàn và theo mọi người vượt qua dãy hành lang thăm thẳm, tới căn phòng cận buồng riêng Chúa H⬙mông. Ánh sáng bị đẩy lùi ra ngoài, chàng bắt đầu bước vào một thế giớí lung linh hoe vàng, ấm hẳn người lên. Như cái máy, Voòng Dắt nhẹ mở cửa phòng, nghiêng mình làm hiệu.

Đã quen thuộc, Đại Sơn Vương bước vào luôn sau lưng cánh cửa lập tức khép lại. Giữa vùng ánh sáng ảo huyền quyện đầy khói thuốc những chiếc dọc tẩu đang chạy tanh tách trên dây chuyền vàng, hàng mỹ nữ nằm bên năm ngọn đèn dầu như sao sa, chính giữa sập lót da báo gấm, hình dáng quen thuộc của Chúa Tể xứ H⬙mông nầm bất động, chăn gấm đắp lên tân gáy, khuôn mặt quắc thước tẩm “Moócphin” và ánh đèn dầu, đã trở nên mơ hồ, linh hồn như đã nương cánh khói bay về tận cõi Phù Dung. Viên tướng người Kinh nhẹ nhàng tiến đến bên sập. Mỹ nữ kíinh cẩn cúi chào, không nóiì nửa lời. Như cáit máy tướng núi treo mũ lên mắc, lẳng lặng ngả luôn lưng xuống bên đèn theo đà tay

đỡ của mỹ nhân.

Và, thuốc phiện thượng hạng réo trong lọ sành chạm ngọc từng hồi. Giữa vùng không gian mờ mờ sương khói Phù Dung, chợt tiếng “Ông Vua thuốc phiện Đông Dương” nổi lên, mơ hồ như từ dĩ vãng “Hiện” về.

…Đã lâu rồi. Cách đây ngót trăm năm. Một buổi Nam bang trở gió vàng hiu hắt, cbiếm xong Nam Kỳ, Pháp quân đánh kinh thành Huế. Nguyễn Triều tướng mọn binh hèn, vua quan kém cỏi nhân dân chán nản phân ly. Kinh thành thất thủ, phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi ra khỏi kinh thành và… đưa theo cả kho tàng triều Nguyễn theo.

Nhưng rồi thế địch như hùm, bốn phương thất thủ, Vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất Thuyết cùng quân gia chạy ra đất Bắc mấy chục xe vàng tẩu quốc cũng theo vó ngựa bôn đào. Khắp nơi quân địch truy tầm. Tôn cùng bọn gia tướng xuyên sơn ngược lên Tây Bắc, tới giang san xứ Thái, Lai Châu. Lối mòn hiểm trở khó đii.Tôn phải cho thồ vàng lên lưng ngựa, suốt ngày đêm, thường xõa tóc cầm gươm trấn áp tải, đề phòng quân tướng sinh lòng phản trắc đoạt vàng. Tôn vốn nghiêm khắc, đa nghi Thất thế, tải vàng theo quá nhiều, càng đa nghi

dữ dội. Hành trình bí mật, nhưng không qua khỏi tai mắt các tay sơn tặc và tù trưởng Tây Bắc. Số vàng mang theo là tất cả kho làng triều Nguyễn tích lũy bao năm nên cả Pháp quân lẫn sơn tặc đều tìm cách chiếm đoạt. Tôn thừa biết nên hết sức giữ kín lộ trình, và bố phòng cẩn mật.

Một đêm, đoàn người tẩu quốc dừng ngựa bên bờ Hắc Giang. Tôn chọn một nơi hiểm trở giữa vùng sông núi đóng trại, cho quân gia nấu cơm nghỉ ngơi lấy sức, mai qua sông và đồng thời cho thám mã tuần sát khắp vùng. Canh hai thám mã về báo thấy nhiều bóng người ngựa khả nghi khắp nẻo. Tôn liền đốc xuất tùy tùng bố trận đề phòng, và xách gươm đi khắp trại quân, kiểm soát “Ngựa vàng”.

Nửa đêm họ Tôn ngồi xõa tóc trong lều, thanh kiếm Long Tuyền để ngang trước mặt. Chợt một trận gió đêm lùa vào thổi rạp thoi nến đỏ. Tôn ngẩng phắt đầu lên, giật mình đánh thót, quơ tay nắm lấy đốc kiếm Long Tuyền. Một ông già quắc thước, râu bạc, áo rộng, mắt sáng, đứng sững trước cửa lều, tay cầm một chiếc bàn tay sét đánh đen xì. Nhanh như cắt họ Tôn nhảy vọt sang bên, tay lăm lăm thanh kiếm báu, quát lớn:

- Ngươi là ai? Bay đâu!

Ông già lạ điềm nhiên tiến vào, khoa nhẹ bàn tay sét đánh trước mặt đại thần triều Nguyễn giọng âm u:

- Tôn tướng công! Lão có lời muốn nói. Xin hãy bình tâm. Chúng quân đã ngủ kỹ rồi!

Lạ thay! Bàn tay đen vừa khoa Tô Thất Thuyết đứng ngây như pho tượng giương mắt ngó ông già kỳ dị, tâm thần nửa tỉnh nửa mê.

- Kho tàng là vận mạng của Nam bang, nay Nguyễn triều suy yếu tướng công bại binh còn định chở kho vàng đi đâu? Nay thiên hạ bao kẻ manh tâm chiếm đoạt sớm mai gươm súng địch sẽ chĩa tới bờ Hắc Giang này, thế như hổ báo tranh mồi, sức quân tàn của tướng công sao chống nổi? Sao không chôn giấu kho tàng, chờ cơ hội, chiêu binh mãi mã?

Tôn đăm đăm nhìn ông già lạ, chống mũi gươm xuống đất.

- Bại quan này định sang Tàu, vốn đã có ý đó từ khi đem kho làng lên đường tẩu quốc. Nhưng chỉ e báu vạt sa tay đạo tặc, còn lấy gì chiêu binh phục hận?

Ông già nghiêm mặt:

- Vật báu Nam bang phải vào tay kẻ có lòng vị quốc. Lão có lời nguyền, có thể giúp tướng công. Mau theo lão.

Như mê, Tôn Thất Thuyết xách gươm theo ông già cầm bàn tay sét đánh, lòng rối loạn không rõ ma quái thần nhân hay đạo tặc nữa. Khỏi lều ông già đưa họ Tôn ra thẳng rừng rậm, dọc theo bờ sông Hắc và mất hút giữa vùng đồi núi điệp trùng.

Cuối canh ba, tự nhiên gió rừng nổi lên đùng đùng, lá cây, cát bụi bay mù, nước sông Hắc đang phẳng lặng, chợt nổi ba đào cuồn cuộn. Trong giông gió ầm ầm, đám quân tướng họ Tôn vùng thức giấc, nghe tiếng ngựa hí vang lừng, kẻ xách gươm, ngườì mang súng chạy tới chỗ buộc “Ngựa vàng”, chỉ thấy đàn ngựa kinh hoảng chồm vó giật dây, trên lưng ngựa… cả kho tàng hàng bao nhiêu xe vàng thoi đã biến mất rồi. Quân tướngkinh sợ nhìn nhau bên tai còn nghe từ xa xôi vọng về một tiếng hú rờn rợn bay lượn vật vờ trong gió lốc, kéo dài lê thê rồi vụt tắt trong đêm. Chớp mắt, gió tạnh, nước yên, trời đất khai quang, Tôn Thất Thuyết xõa tóc, xách gươm trở lại vòng quân, truyền nhổ trại lên đường lập tức. Quân tướng thấy mất kho tàng đều kinh, nhưng sợ phép Tôn, không ai dám hỏi. Vượt Hắc Giang tay không cả bọn lại xuyên sơn ngược mãi lên phía biên thuỳ. Rồi một đêm ông già lạ tới dẫn họ Tôn vào rừng,

gần sáng mới thấy Tôn trở về, hô quân tướng vượt cỏ phân mao, sang đất Tàu, nương ở Long Châu, chờ ngày phục hận.

Chính sử chép: Suốt ngày đêm Tôn Thất Thuyết đem gươm Long Tuyền ra mài ngày càng dữ tợn như điên rồi thác nơi đất khách để lại miền Tây Bắc một kho tàng vô gía, cơ nghiệp cả Nguyễn Triều. Sử chỉ chép sơ lúc Tôn tới bờ sông Hắc nghỉ binh và cất giấu kho tàng. Sớm mai qua sông, không thấy đem vàng theo nên thiên hạ đều cho là Tôn đã chôn cất quanh vùng. Chờ ngày về sẽ lấy.

Từ ngày đó tới nay, các tướng tá, tù trưởng mọi sắc dân, cùng bọn giang hồ thảo khấu luôn luôn sục khắp miền Hắc Giang tìm kho tàng vô giá, không biết bao nhiêu khối vàng nén. Nhưng dấu vết kho tàng vẫn chìm trong hư ảo, đất Tây Bắc đã đầy dấu chân người đua nhau tìm kho tàng vô giá. Cả thiên hạ đều tin chắc họ Tôn đã chôn giấu cạnh bờ sông Hắc. Nhưng đến nay màn bí mật vẫn bao trùm Tây Bắc. Chỉ có mấy dòng họ biết con đường tìm đến kho tàng : Bức họa đồ chỉ

ĐẾN TRANG
Thông Tin
Lượt Xem : 7400
Tác Giả : Sưa Tầm
GỬI BÌNH LUẬN