--> Tuyệt Kiếm Đoạn Trường Nhai - game1s.com

Tuyệt Kiếm Đoạn Trường Nhai

thành một chiếc võng, đặt Lý Thuần Như nằm lên, sau đó mỗi người cầm lấy một góc phóng đi như bay.

Lý Thuần Như chẳng hiểu các tăng nhân áo vàng này giở trò trống gì, song thấy họ như không có ác ý, nên chàng cũng lặng thinh. Họ phóng đi hơn dặm đường, đều là dọc theo bờ sông.

Chừng nửa giờ sau, bốn tăng nhân mới dừng chân lại.

Lý Thuần Như ngước lên nhìn, chỉ thấy bên sông có một chiếc bè gỗ rất to, trên bè có mấy túp lều vải.

Bốn tăng nhân đến bờ sông, cùng tung mình lên, cách nhau gần ba trượng đã hết sức vững vàng hạ chân xuống bè.

Từ trong lều vải, hai bên cũng có mấy tăng nhân áo vàng bước ra, cùng hỏi:

- Đã đón được rồi ư?

Bốn tăng nhân áo vàng gật đầu.

Lý Thuần Như lòng càng thêm thắc mắc, chỉ thấy bốn người đi thẳng về phía túp lều to nằm giữa, đến trước cửa lều mới nhẹ nhàng đặt Lý Thuần Như xuống, cùng khom mình nói:

- Kính bẩm trưởng lão cùng nhị vị Chuyển Luân Vương, người cần tìm đã đón đến rồi.

Vừa dứt lời, đã nghe trong lều có người nói:

- Hãy mời vào đây!

Bốn người đưa mắt nhìn Lý Thuần Như, đoạn lắc đầu nói:

- Kính bẩm trưởng lão, y đang thọ trọng thương, huyết khí rất suy nhược, không thể đi đứng được.

Trong lều im lặng một hồi, mới nói:

- Vậy thì hãy dìu vào đây.

- Thưa vâng!

Bốn người liền xúm nhau đỡ Lý Thuần Như lên, vén lều dìu chàng đi vào.

Lý Thuần Như biết đã sắp đến lúc màn bí mật được vén mở, vừa vào đến trong lều đã ngẩng lên nhìn quanh.

Nhưng thấy trong lều bài trí rất đơn sơ, chính giữa là một bàn thờ, trên bàn là mấy pho tượng Phật cao chừng ba thước, vàng lấp lánh. Trong khói nhang nghi ngút và ánh nến lập lòe, bầu không khí hết sức thần bí.

Trước bàn thờ có ba chiếc ghế nhựa, trên mỗi ghế là một tăng nhân, người ngồi giữa đã già đến mức khó nhận định được tuổi tác, hai người ngồi bên tuổi cũng khá cao.

Lý Thuần Như thầm nghĩ, những tăng nhân này xem ra người nào cũng võ công cao cường, ba lão hòa thượng kia có lẽ chính là lãnh đạo của họ, trông cao tuổi thế kia, võ công hẳn là cao thâm khôn lường.

Chàng vừa vào đến, ba lão hòa thượng liền mở bừng mắt, trong lều như vụt sáng lên. Lý Thuần Như kinh hãi thầm nhủ:

- Nội công tinh thâm quá!

Đã nghe lão hòa thượng ngồi giữa chậm rãi nói:

- Khúc thí chủ đường xa vất vả quá, xin mời ngồi!

Lập tức có người bưng ghế đến. Lý Thuần Như ngồi xuống, thật ra thì chàng gần như là ngã xuống, lòng càng thêm kinh ngạc, sao lão hòa thượng này cũng bảo mình họ Khúc giống như Tây Môn Thất thế nhỉ?

Lý Thuần Như cười gượng nói:

- Đại sư đã lầm rồi, tại hạ không phải là họ Khúc mà là họ Lý.

Lão hòa thượng như kinh ngạc, vội đưa mắt nhìn bốn tăng nhân kia. Bốn tăng nhân đó vội vàng ra khỏi lều, lát sau đã cùng vị tăng nhân đi với quái thú cõng Lý Thuần Như đến đây đi vào, nói:

- Chính do Xa Ma đã đón đến đây, chúng đệ tử vốn không rõ sự tình.

Tăng nhân tên Xa Ma vội nói:

- Xin trưởng lão hãy xem đây!

Thò tay vào lòng lấy ra một cuộn da dê, kéo mở ra đưa đến trước mặt lão hòa thượng ngồi giữa.

Lý Thuần Như liếc mắc nhìn, bất giác giật mình kinh hãi, thì ra đó là một bức chân dung, mà chân dung ấy chính là chàng.

Lý Thuần Như kinh hãi chẳng phải là không có lý do, thử nghĩ chàng không hề quen biết với những tăng nhân áo vàng này, và thậm chí ngay cả lai lịch của họ cũng chẳng rõ, vậy mà họ lại có chân dung của chàng, chàng không kinh hãi sao được?

Lão hòa thượng ngồi giữa đón lấy bức chân dung, khoát tay ra hiệu cho năm người lui ra, đoạn lão đưa mắt nhìn Lý Thuần Như rồi lại nhìn bức chân dung một hồi lâu. Sau đó lại trao cho hai tăng nhân ngồi hai bên.

Ngắm nhìn Lý Thuần Như suốt hơn nửa giờ, đoạn lão hòa thượng mới lên tiếng nói:

- Khúc thí chủ, bọn lão tăng mời thí thủ đến đây không hề có ác ý, thí chủ hà tất không thừa nhận?

Lý Thuần Như cười héo hắt:

- Tại hạ quả thật không phải họ Khúc, các vị lại nhất quyết bảo tại hạ họ Khúc, tại hạ đương nhiên không nhìn nhận rồi.

Lão hòa thượng nhếch môi cười, trao bức chân dung cho chàng và nói:

- Khúc thí thủ hãy xem đây là ai?

Lý Thuần Như đón lấy bức chân dung xem thật kỹ, đoạn cười thiểu não nói:

- Đây chính là tại hạ.

Lão hòa thượng nhẹ gật đầu:

- Vậy là đúng rồi! Bức chân dung này thật ra không phải là thí chủ, mà là Hắc Thủy đảo chủ Khúc Cầm Phu khi xưa, nếu thí chủ không phải hậu duệ của Khúc đảo chủ thì sao lại giống nhau thế này?

Lý Thuần Như bỗng nhớ lại lời nói của Tây Môn Thất, giờ đây vị hòa thượng này cũng nói giống như vậy, sự việc này chính chàng cũng không rõ, phải hỏi cha mẹ mình mới biết được, bèn nói:

- Việc người giống người là thường, song thân tại hạ đều còn đủ, lẽ nào lại là con của Khúc đảo chủ?

Lão hòa thượng thoáng nhướng đôi mày dài:

- Có lẽ thí chủ đã ngộ nạn từ thuở bé, được song thân nuôi dưỡng mà không hề nói cho thí chủ biết.

Lý Thuần Như nghĩ việc này quá rắc rối, có tranh cãi cũng chẳng ra lẽ, hà tất nói nhiều làm gì, nên bèn nói:

- Bất kể phải hay không, đại sư mang tại hạ đến đây có gì chỉ giáo vậy?

Lão hòa thượng cười:

- Lão tăng năm nay đã một trăm mười hai tuổi, lẽ nào lại nhận lầm người? Khúc thí chủ có biết mình chính là giáo tông của bổn giáo, do Phật sống Đan Châu Nhĩ đã chuyển thế không?

Lý Thuần Như thầm reo lên, hay nhỉ! Mình lại trở thành Phật sống tái thế ư? Họ đã tin vậy, nhưng mình đâu thể thừa nhận bừa, vội nói:

- Đại sư nói thật khó tin, tại hạ sao lại có thể là Phật sống chuyển thế được chứ?

Lão hòa thượng cười, nghiêm túc nói:

- Già Đương Tự Hoàng Giáo kể từ khi được A Đê Sa tôn giả sáng lập đến Phật sống Đan Châu Nhĩ đã được chín đời. A Đê Sa tôn giả lúc lâm chung đã bảo là ngài sẽ sống mãi muôn đời, phàm đứa bé nào sinh ra đời cùng với lúc Phật sống tạ thế, đó chính là Phật sống đã chuyển thế. Mọi người trong giáo không bao giờ dám quên, lẽ nào lại lầm được?

Lý Thuần Như nực cười:

- Thì ra các vị là tăng nhân Hoàng Giáo ở Tây Tạng, vậy là càng không thông rồi!

- Không thông như thế nào?

- Các vị ở xa tận Tây Tạng, cho dù tại hạ đúng là con trai của Hắc Thủy đảo chủ Khúc Cầm Phu thì Phật sống chuyển thế cũng đâu có đi xa đến vậy?

Lão hòa thượng vẻ mặt trang nghiêm:

- Phật sống lúc sinh tiền tài năng đã thông thiên quán địa, khi đầu sinh chuyển thế hẳn vươn xa ngàn dặm trong khoảng khắc, Tây Tạng tuy cách xa Hắc Thủy đảo cũng đâu có gì trở ngại.

Lý Thuần Như thấy đối phương quá tín ngưỡng, biết dù biện giải thế nào lão hòa thượng này cũng không chịu đổi ý, đang định tìm lời thối thác, lại nghe lão hòa thượng nói tiếp:

- Hồi mười tám năm trước, lúc Phật sống Đan Châu Nhĩ sắp qua đời đã chỉ tay về hướng bắc, lão tăng nhân là trưởng lão, lập tức xuất lĩnh hai Chuyển Luân Vương đi về hướng bắc tìm kiếm đứa bé do Phật sống chuyển thế, song vượt qua vạn dặm gian truân vẫn không gặp ai cả, đó là điều xưa nay chưa từng có.

Lý Thuần Như cũng cảm thấy lý thú

hỏi:

- Về sau thế nào?

- Lão tăng ba người cảm thấy hết sức hoang mang, bèn quỳ xuống đất cầu Phật, xin Phật sống hiển linh.

Lý Thuần Như cười:

- Phật sống có chỉ điểm gì không?

- Dĩ nhiên là có! Khi lão tăng ba người khấn vái xong, liền có bạch hạc dẫn đường đến đảo Hắc Thủy, và đảo chủ vừa sinh được một con trai, ngày giờ sinh đúng là vào lúc Phật sống Đan Châu Nhĩ tạ thế.

Lý Thuần Như thấy sự việc này tuy có vẻ thần bí, nhưng thật ra đó cũng chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, bởi miền bắc vốn có rất nhiều bạch hạc, người Tây Tạng chưa từng trông thấy cho nên mới lấy làm lạ. Mà cõi đời bao la, lúc nào cũng có trẻ con sinh ra, trùng hợp với giờ tạ thế của Phật sống Đan Châu Nhĩ cũng đâu có đáng kỳ lạ.

Lại nghe lão hòa thượng nói tiếp:

- Lúc bấy giờ đứa bé mới sinh được hai mươi ba hôm, bọn lão tăng đã bày tỏ ý định muốn đem đứa bé đi, nhưng hai vợ chồng đảo chủ đã không chấp thuận.

Lý Thuần Như thầm nhủ:

- Nếu Hắc Thủy đảo chủ mà chấp thuận thì đó mới đáng lấy làm lạ.

Lão hòa thượng lại nói tiếp:

- Bởi hai vợ chồng đảo chủ có công cưu mang Phật sống, bọn lão tăng cũng chẳng tiện cưỡng bức, đành họa lấy chân dung đảo chủ mang về, định sau một thời gian sẽ với đại lễ nghênh đón. Nào ngờ bọn lão tăng chưa về đến Tây Tạng đã nghe tin toàn gia Hắc Thủy đảo chủ ngộ nạn, duy có ấu tử bởi đi khỏi đảo nên mới may mắn thoát nạn.

Lý Thuần Như phì cười:

- Vậy thì Phật sống quả là hiển linh nên ấu tử của Khúc đảo chủ mới thoát khỏi đại nạn.

- Đương nhiên là vậy, khi bọn lão tăng hay tin liền lập tức tìm kiếm khắp nơi, nhưng suốt một năm dài vẫn chỉ hoài công. Bọn lão tăng đành quay về Tây Tạng, phái người tiếp tục tìm kiếm. Mãi đến năm rồi mới có nghe người về báo là đã gặp một thanh niên tại Hồ Nam, giống hệt như Hắc Thủy đảo chủ khi xưa. Thế là bọn lão tăng ba người mới trở lại Trung Nguyên.

Lý Thuần Như nhớ lại, đúng là năm rồi mình có đến Hồ Nam, hẳn đã bị tăng nhân áo vàng trông thấy, nên bèn nói:

- Câu chuyện đại sư đã nói quả là ly kỳ, nhưng tại hạ từ khi hiểu sự đến nay, quả tình chỉ biết gia phụ họ Lý thôi.

Lão hòa thượng cười:

- Điều ấy rất dễ dàng, mỗi đời Phật sống chuyển thế đều có cách thử nghiệm để tránh khỏi sự lầm lẫn, hiện lão tăng vẫn chưa quả quyết thí chủ chính là Phật sống chuyển thế, thí chủ hãy chịu khó theo bọn lão tăng trở về Già Đương Tự rồi hẵng liệu, được chăng?

Lập tức chàng nghĩ đằng nào mình cũng đang ở Tây Tạng, không bằng lòng cũng chẳng thể được, thôi thì theo họ cũng chẳng sao.

Nhưng nghĩ lại, người mình suy nhược thế này, chẳng rõ sẽ còn sống được bao lâu, bất giác buông tiếng thở dài nói:

- Đi đến tự viện của các vị một phen vốn không thành vấn đề, nhưng hiện tại, tại hạ đang thọ trọng thương, võ công mất hết, chỉ sợ khó thể đi xa.

Lão hòa thượng chú mắt nhìn Lý Thuần Như một hồi, đoạn cười nói:

- Việc ấy hết sức dễ dàng.

Nói đoạn lão chậm rãi đứng lên. Xem lão hòa thượng gầy bé và già nua thế kia, nhưng khi đứng lên, khí thế hào hùng khôn tả, cất một bước đã đến cạnh Lý Thuần Như, hai cánh tay gầy guộc cùng vươn tới, một đặt vào trước và một đặt vào sau vùng tim Lý Thuần Như.

Lập tức, Lý Thuần Như kêu “ồ” lên một tiếng, thì ra đôi tay lão hòa thượng nóng rực như sắc nung.

Lý Thuần Như tuy kêu lên một tiếng, song biết là lão hòa thượng này đang với nội công thuần chính điều thương cho mình, vội nhắm mắt tĩnh tọa, cố gắng chịu đựng cảm giác nóng rực kia.

Lát sau, sức nóng từ bàn tay lão hòa thượng đã giảm dần, bắt đầu có một luồng sức êm dịu truyền vào cơ thể, dẫn dắt chân khí vốn đã không sao vận chuyển của Lý Thuần Như xuyên qua các huyệt đạo.

Chừng hai giờ sau, chân khí trong người Lý Thuần Như đã có thể tự vận chuyển được, song luồng sức mạnh từ hai tay lão hòa thượng truyền qua vẫn tiếp tục chuyển động.

Lý Thuần Như cảm thấy toàn thân hết sức sảng khoái, chẳng những công lực đã hoàn toàn hồi phục mà còn tăng tiến không ít.

Nếu là kẻ khác, biết đối phương nội lực thâm hậu, nếu không lên tiếng thì sẽ càng có nhiều ích lợi hơn, song Lý Thuần Như không phải là người như vậy, chàng biết đối phương đã truyền nội lực vào trong cơ thể mình, sự tiêu hao rất lớn lao, không muốn lợi mình thiệt người như vậy, nên mở mắt ra nói:

- Đa tạ đại sư đã cứu giúp, tại hạ đã phục hồi công lực rồi.

Lão hòa thượng mỉm cười, rụt tay về, lui ra sau một bước.

Lý Thuần Như đứng bật dậy, bước đi vài bước, cảm thấy nội lực dạt dào, chỉ trong một thời gian ngắn mà công lực đã tăng trưởng rất nhiều hơn xưa, lòng hết sức bội phục công lực thâm hậu của lão hòa thượng.

Theo lễ phép giữa vãn bối đối với tiền bối trong võ lâm, Lý Thuần Như toan quì xuống bái lạy, nhưng chàng vừa co chân, một luồng sức mạnh rất dịu dàng đã ập đến trước ngực, ngăn chàng lại.

Chàng đưa mắt nhìn, thấy lão hòa thượng chỉ nhẹ nhàng lật tay, Lý Thuần Như càng thêm bội phục, thừ ra nhìn lão hòa thượng, hồi lâu mới nói:

- Đại sư, nếu tại hạ quả thật là Phật sống chuyển thế của quý giáo, chả lẽ các vị thảy đều nghe theo sự chỉ huy của tại hạ sao?

Lão hòa thượng mỉm cười:

- Đương nhiên, chưởng giáo giáo tông có uy lực vô thượng trong bổn giáo, mọi giáo chúng tuyệt đối không được trái lệnh.

Lý Thuần Như chợt động tâm, thầm nghĩ nếu mình mà trở thành giáo tông của họ, vậy thì dưới tay mình có biết bao là cao thủ. Giáo tông bao đời của họ có lẽ chưa từng bước chân vào Trung Nguyên, nên nhân vật võ lâm Trung Nguyên mới không biết đến, nếu mình mà trở thành giáo tông, cho dù công lực bản thân không chút tiến triển, thì cũng có thể trở thành một nhân vật đứng đầu trong giới võ lâm.

Lý Thuần Như thừ ra suy nghĩ, nhưng nghĩ đến đây chàng cũng cảm thấy nực cười, bởi vừa rồi chàng đã hoàn toàn không tin có Phật sống chuyển thế, vậy mà bây giờ lại suy nghĩ đến vấn đề ấy, chàng vội thu hồi niềm suy tư, hỏi:

- Đại sư vừa rồi đã nói là còn phải thử nghiệm, chẳng hay thử nghiệm bằng cách nào?

- Bọn lão tăng rất tin là Phật sống chuyển thế đương nhiên đã quên hết mọi sự của kiếp trước, tuy nhiên vẫn còn một chút linh tri chưa tiêu tan, còn nhận ra vật ưa thích nhất của mình kiếp trước. Khi Phật sống chưa chuyển thế, ưa thích nhất là một bộ kinh thư, sớm tối không rời. Hiện nay trong Già Đương Tự đã chuẩn bị sẵn hai mươi bộ kinh thư trông bề ngoài giống hệt nhau, thí chủ chỉ cần nhất cử chọn ra được bộ kinh thư thật thì sẽ được toàn thể tăng nhân trong tự sùng bái.

Lý Thuần Như nghe xong không khỏi héo hắt, thầm nghĩ việc nhất cử chọn ra được quyển kinh thư thật trong số hai mươi quyển giống nhau, quả chẳng phải dễ dàng.

Đành từ bỏ ý niệm ấy lại thôi, mình đã được lão hòa thượng giúp cho tăng tiến công lực, lẽ nào lại còn tham lam đứng núi này trông núi nọ nữa? Vả lại, nếu như mình thật sự trở thành giáo tông của họ, nhất định sẽ phải thế phát làm hòa thượng, vậy thì Đào Lâm sẽ ra sao?

Do đó chàng chỉ “à” một tiếng rồi không nói gì nữa.

Lão hòa thượng quay ra ngoài lều khoát tay, liền thấy mấy mươi tăng nhân lăng xăng làm việc, lát sau đã thu dọn xong lều bạt.

Lý Thuần Như thấy những tăng nhân kia người nào cũng võ công cao cường, nhớ lại vừa rồi lão hòa thượng đã bảo là Phật sống Đan Châu Nhĩ hồi sinh tiền, vật ngày đêm không rời là một bộ kinh thư. Theo lẽ Phật sống là tông chủ của một giáo, đương nhiên là phải có thành tựu siêu việt về Phật lý, do đó một bộ kinh thư không thể nào đủ để khiến giáo chúng kính phục, nhưng Phật sống Đan Châu Nhĩ lại chỉ xem có mỗi bộ kinh thư ấy, hay bộ kinh thư này chính là một bửu điển võ học của Phật môn? Bởi vậy trong Già Đương Tự người nào cũng có võ công cao cường?

Lý Thuần Như chẳng qua cũng chỉ tùy tiện nghĩ vậy thôi, bởi bộ kinh thư kia cho dù là bửu điển võ học thì chàng cũng chẳng thể nào lấy được.

Đương nhiên nếu chàng mà nhất cử chọn ra được bộ kinh thư thật trong hai mươi bộ giống nhau, chẳng những bộ kinh thư ấy thuộc quyền sở hữu của chàng, mà chàng còn có thể trở thành giáo tông của Già Đương Tự.

Thế nhưng, niềm hy vọng ấy thật là quá mong manh.

Thu dọn xong tất cả lều bạt, mọi người bắt đầu lên đường, Lý Thuần Như đi cùng lão hòa thượng và hai Chuyển Luân Vương. Vượt đèo qua núi, đường đi rất gập ghềnh, tốc độ tiến tới khá chậm, có vài nơi vách đá cheo leo, Lý Thuần Như nếu không nhờ sự giúp đỡ của lão hòa thượng, công lực tăng tiến, e rằng chẳng tài nào vượt qua được.

Đi suốt ba ngày liền. Qua ngày thứ tư, mặt trời lên chưa lâu, bọn người đã lên đến một đỉnh núi, từ trên cao nhìn xuống, Lý Thuần Như bất giác kinh ngạc reo lên.

Thì ra bên dưới là một sơn cốc rộng thênh thang, cửa sơn cốc là một hồ nước trong xanh, đồi núi xung quanh thảy đều phản ánh trong nước, cộng thêm trời xanh mây trắng và những cánh chim ung dung bay liệng trên mặt nước, gây cảm giác tột cùng thanh tĩnh thoát tục.

Bên bờ hồ mọc đầy các loài hoa dại đua nhau khoe sắc, vài chú nai bông thảnh thơi đi dạo, thật chẳng khác Bồng Lai tiên cảnh. Và cách hồ nước không xa, một ngôi tự viện nguy nga hùng vĩ nằm dựa vách núi, chỉ nhìn bề ngoài cũng đủ thấy trang nghiêm thanh thoát rồi.

Lý Thuần Như xem một hồi, thầm nghĩ cho dù làm một tăng nhân bình thường sống thanh thản trọn đời trong ngôi chùa này, còn hơn ngồi trên chiếc ghế đệ nhất võ lâm, luôn tranh giành chém giết trong chốn giang hồ.

Lý Thuần Như cảm thấy hết sức hâm mộ, bèn hỏi:

- Đại sư, đây chính là Già Đương Tự?

Lão hòa thượng gật đầu, chỉ thấy trong tự vang lên tiếng niệm kinh, rồi thì hai hàng tăng nhân từ trong bước ra, theo hình cánh nhạn đứng trước cửa chùa, tất cả đều ngẩng đâàu lên nhìn.

Lão hòa thượng giọng cảm thán nói:

- Bổn giáo không có giáo tông đã mười tám năm rồi, lòng trông đợi giáo tông của mọi người thật như nắng hạn trông mưa.

Lý Thuần Như bỗng hỏi:

- Đại sư đức cao trọng vọng, nội lực cao thâm hiếm có trên đời, tại sao không tiếp nhiệm giáo tông?

Lão hòa thượng trố to mắt:

- Khúc đàn việt sao lại nói vậy? Không phải Phật sống chuyển thế, ai có thể sung nhiệm giáo tông? Vả lại, lão tăng khởi thủy bất quá chỉ là một tiểu tăng, được Phật sống Đan Châu Nhĩ đoái thương mới có được ngày nay, lẽ nào lại loạn nhiệm giáo tông?

Lý Thuần Như nghe vậy, lại động tâm hỏi:

- Vậy là đại sư sở dĩ võ công tinh thâm chính do Phật sống Đan Châu Nhĩ đã truyền cho ư?

Lão hòa thượng gật đầu:

- Đúng vậy! Xưa kia, bổn giáo không hề biết phương pháp luyện khí tập võ, nên thường bị người hà hiếp, đến tự viện cũng phải xây cất tại nơi hẻo lánh này. Nhưng từ đời Phật sống Đan Châu Nhĩ trở về sau thì tình hình khác hẳn.

Lý Thuần Như nghe vậy lại càng tin bộ kinh thư sớm tối không rời của Phật sống Đan Châu Nhĩ chính là một pho bửu điển võ học. Hai người vừa trò chuyện vừa đi xuống núi, lát sau đã đến bên bờ hồ.

Tiếng niệm Phật hiệu của hai hàng tăng nhân càng to vang, Lý Thuần Như chẳng hiểu họ đang niệm gì, nhưng qua vẻ mặt trang nghiêm lẫn vui mừng của họ, cũng có thể biết là họ đang hoan nghênh mình.

Chàng theo lão hòa thượng đi vào chùa, chỉ thấy trên vách hai bên đại điên cao khoảng bốn trượng, vẽ đầy các bức tranh về sự tích trong kinh Phật, và những tượng Phật Tam Bảo lại càng trang nghiêm lộng lẫy đến tột bậc.

Lý Th

Thuần Như không phải là người trong Phật môn, song đứng trước cảnh thế này cũng không khỏi sinh lòng tôn kính.

Lão hòa thượng đưa chàng vào trong một gian tĩnh thất nơi hậu viện rồi rời khỏi ngay.

Trong tự có người phục vụ việc tắm rửa và ăn uống cho chàng. Liên tiếp ba hôm, Lý Thuần Như đều sống trong hoàn cảnh hết sức yên tĩnh, vị lão hòa thượng kia cũng không hề đến lần nào.

Sáng ngày thứ tư, bỗng nghe khắp chùa ngân vang tiếng khuông la, tiếng trống chiêng và tiếng gõ mõ liên hồi, khói nhang nghi ngút, lão hòa thượng và hai tả hữu Chuyển Luân Vương cùng đến đón Lý Thuần Như ra đại điện.

Lý Thuần Như quét mắt nhìn, trong đại điện đông nghịt người, ít ra cũng có đến bốn năm trăm tăng nhân, tất cả đều quì và cúi đầu tụng kinh, và trước tượng Phật Tam Bảo có đặt một chiếc ghế dài, bên trên là hai mươi chiếc hộp bằng gỗ đàn tía, hình dạng và kích cỡ giống như nhau.

Lão hòa thượng và hai Chuyển Luân Vương dẫn Lý Thuần Như đi đến trước chiếc ghế dài, cũng quì xuống đất.

Cả đại điện chỉ có một mình Lý Thuần Như là đứng, chàng biết lúc này là giờ khắc vô cùng trọng đại đối với tất cả tăng nhân hiện diện trong đại điện này.

Lão hòa thượng quì xuống chốc lát, chầm chậm giơ tay lên, lập tức mọi tiếng động đều ngưng bặt, cả đại điện im phăng phắc.

Chỉ nghe lão hòa thượng với giọng rất trầm thấp khẩn cáo, chừng nửa giờ sau, tất cả tăng nhân mới cùng đứng lên.

Lão hòa thượng đi đến trước mặt Lý Thuần Như nói:

- Xin Khúc đàn việt hãy ra tay!

Lý Thuần Như vốn nhận thấy hoàn cảnh trước mắt gần như là trò đùa, tuy chàng cũng rất muốn hiểu rõ bộ kinh thư của Phật sống Đan Châu Nhĩ thật ra ghi chép những gì, nhưng chàng không hề nghĩ là mình có thể trở thành giáo tông của Già Đương Tự, chỉ mong sớm xong việc hầu trở về Trung Nguyên tìm gặp Đào Lâm, cùng sống những tháng ngày nên sống của mình, hơn làm làm giáo tông nhiều.

Do đó, khi lão hòa thượng dứt lời, chàng liền tiến tới một bước, đưa tay ra lấy bừa một chiếc hộp trên ghế. Nhưng khi ngón tay chàng sắp chạm vào chiếc hộp ấy, đột nhiên cảm thấy huyệt Xích Trạch nơi khuỷu tay thoáng tê dại, khiến cánh tay chàng không tự chủ được cất lên năm sáu tấc, chộp vào khoảng không.

Lý Thuần Như sửng sốt vô cùng, liền ngoảnh lại nhìn, chỉ thấy hàng trăm con mắt đang nhìn vào mình, lão hòa thượng và hai Chuyển Luân Vương đều đang chấp tay trước ngực, cúi đầu lẩm nhẩm khấn nguyện, thật chẳng thể nhận ra được người nào đã ra tay phá bĩnh?

Nhưng Lý Thuần Như nhận thấy rất rõ ràng, nếu vừa rồi mà huyệt Xích Trạch của mình không bị tê dại, thì chiếc hộp kia hiện đã cầm trong tay rồi.

Nên sau khi nhìn quanh, chàng quay trở lại ngay, suy nghĩ thật nhanh, nhận thấy chỉ có một khả năng, đó là trong ba người lão hòa thượng và hai Chuyển Luân Vương nhất định là biết rõ bộ kinh thật đã được đặt trong chiếc hộp nào, và chính một trong ba người ấy vừa rồi đã ra tay điểm vào huyệt Xích Trạch của mình.

Người ấy vì lẽ gì lại ra tay như vậy?

Có hai khả năng, một là không muốn mình trở thành giáo tông của Già Đương Tự Hoàng Giáo, có nghĩa là vừa rồi mình đã chọn đúng chiếc hộp có bộ kinh thư thật.

Khả năng thứ hai là người ấy muốn mình trở thành giáo tông, nên khi thấy mình không chọn đúng chiếc hộp có kinh thư thật, liền ra tay ngăn cản.

Lý Thuần Như nghĩ đến đó, bỗng nhớ lại những lời nói của lão hòa thượng mấy hôm trước, đó là lòng trông đợi giáo tông của mọi người thật như nắng hạn trông mưa, nên rất có thể đó chính là kiệt tác của lão hòa thượng.

Mặc dù lão thời gian đang chắp tay cúi đầu khấn nguyện, lão nội công thâm hậu, biết môn cách không điểm huyệt chẳng có gì là lạ. Hơn nữa, lão hòa thượng lại cách mình gần nhất, lão ra tay thì cũng có thể qua mắt tất cả tăng nhân hiện diện dễ dàng.

Lý Thuần Như không suy nghĩ lâu lắm, lại đưa tay chộp lấy chiếc hộp bên cạnh.

Song lần này cũng như lần trước, ngay khi ngón tay sắp chạm vào hộp, lại cảm thấy nơi huyệt Xích Trạch tê dại, cánh tay lại cất lên cao.

Sự việc xảy ra đương nhiên chỉ có Lý Thuần Như và người ra tay mới biết, còn những người khác chỉ thấy Lý Thuần Như như đang đắn đo cân nhắc, định lấy mà rồi lại không lấy vậy.

Do đó, mấy trăm tăng nhân hiện diện càng hồi hộp đến tột độ, tuy trong đại điện có đến bốn năm trăm người, song yên ắng đến độ không một tiếng động khẽ.

Lý Thuần Như bị ngăn cản lần thứ hai, đã biết người ra tay là muốn chàng trở thành giáo tông, bởi kinh thư thật chỉ có một bộ, nếu đối phương không muốn chàng trở thành giáo tông, chắc chắn không bao giờ ra tay ngăn cản đến hai lần.

Lý Thuần Như hết sức thắc mắc lẫn kinh ngạc, đồng thời cũng có chút vui mừng, bởi qua tình hình hiện tại, chắc chắn chàng sẽ trở thành giáo chủ Già Đương Tự.

Lý Thuần Như hít sâu vào một hơi, lại đưa tay chộp vào một chiếc hộp khác, lần nào cũng như nhau, cho đến chiếc hộp thứ mười hai, mới thuận lợi cầm được trong tay.

Lão hòa thượng lập tức đón lấy chiếc hộp ấy, mở nắp lấy ra một quyển kinh thư giơ cao cho mọi người xem.

Lý Thuần Như liếc mắt nhìn, thấy bộ kinh thư chỉ có hai quyển rất mỏng, ngoài bìa là bốn chữ Linh Tàng Bửu Lục.

Lý Thuần Như vừa thấy bốn chữ ấy, bất giác thất thanh kêu lên “ồ” một tiếng, song chẳng một ai nghe thấy, đó không phải là tiếng kêu của chàng không to, mà là lúc bấy giờ tất cả tăng nhân trong đại điện đã reo mừng như sấm động, hoàn toàn át đi tiếng kêu của chàng.

Sự reo mừng của tăng chúng vốn đã nằm trong tiên liệu của Lý Thuần Như, song chàng không ngờ trong hộp lại là Linh Tàng Bửu Lục.

Lý Thuần Như hồi năm rồi mới nghe song thân đề cập đến, theo lời đồn đại trên giang hồ, phái Ngũ Đài trong hơn hai trăm năm qua sở dĩ ngày một suy yếu chính vì bộ bửu lục võ học tuyệt đỉnh có thể luyện thành thân thể kim cang bất hoại gồm bốn quyển của phái này đã đột nhiên biến mất.

Tuy nhiên, đó chỉ là sự đồn đại chưa được chứng thực, và phái Ngũ Đài tuy hơn trăm năm qua thanh danh ngày một suy yếu, song đương kim chưởng môn Vô Không Thiền Sư vẫn là một cao thủ bậc nhất. Vả lại, người trong phái Ngũ Đài không một ai chịu thừa nhận sự kiện ấy. Do đó, đồn đại vẫn cứ đồn đại, người nào cũng chỉ bán tín bán nghi, và thậm chí có kẻ đã hoàn toàn không tin.

Nhưng giờ đây, Lý Thuần Như đã trông thấy rất rõ ràng, hai quyển kinh thư trong tay lão hòa thượng chính là Linh Tàng Bửu Lục, vậy chứng tỏ lời đồn quả không ngoa, bộ kỳ thư võ học này đúng là không còn ở Ngũ Đài Son, mà đã đến Già Đương Tự ở Tây Tạng rồi.

Qua lời lão hòa thượng này, Phật sống Đan Châu Nhĩ lúc tạ thế tuổi đã khá cao, chứng tỏ bộ kỳ thư này trôi giạt đến đây đã rất nhiều năm. Nhưng nghe nói bộ Linh Tàng Bửu Lục này gồm có bốn quyển, sao trong hộp chỉ có hai quyển thế này?

Vấn đề ấy trong nhất thời dĩ nhiên Lý Thuần Như khó có thể hiểu ra, chỉ nghe tiếng hoan hô của mấy trămg tăng nhân kéo dài suốt hơn nửa giờ mới lục tục quì xuống và tiến tới bằng đầu gôi, tranh nhau vái lạy Lý Thuần Như.

Lý Thuần Như bị họ làm cho dở khóc dở cười, mỗi tăng nhân khi đến trước mặt Lý Thuần Như đều nắm lấy tay chàng đặt lên đầu mình. Lý Thuần Như chẳng hiểu đó nghĩa là sao, đành để mặc cho họ muốn làm gì thì làm, và cứ thế kéo dài đến gần trưa.

Lão hòa thượng và hai Chuyển Luân Vương đương nhiên cũng không ngoại lệ, cho đến khi lần lượt sờ lên đầu hết tất cả tăng nhân, lão hòa thượng mới nói:

- Phật sống tái hiện, thật là phúc đức cho bổn giáo.

Mọi tăng nhân liền cùng lặp lại câu nói ấy. Lão hòa thượng giơ cao tay, liền có hai tăng nhân cung kính bưng đến một chiếc hộp, trong hộp là một chiếc cà sa lấp lánh ánh vàng, chẳng rõ được dệt bằng gì. Lão hòa thượng lấy ra, khoác lên mình Lý Thuần Như.

Lý Thuần Như cảm thấy chiếc cà sa nhẹ đến mức như không hề có. Lão hòa thượng lại từ trong hộp lấy ra một ngọn đao bao vàng, hình trăng lưỡi liềm và dài cỡ hai thước, vừa ra khỏi bao, Lý Thuần Như đã cảm thấy hai mắt chói lòa, thầm kêu lên:

- Thật là một ngọn đao quý.

Chỉ thấy lão hòa thượng đưa ngọn đao qua khỏi đầu, đột nhiên nhắm đỉnh đầu Lý Thuần Như phạt tới.

Lý Thuần Như biết đối phương toan xuống tóc cho mình, kinh hãi la lên:

- Đại sư, tại hạ không muốn làm hòa…

Tiếng “thượng” chưa kịp thốt ra khỏi miệng, lưỡi đao lướt qua, tóc đã bị phạt mất một mảng to. Tiếp theo, lão hòa thượng vung đao nhanh như chớp, liên tiếp ba nhát, đã cạo sạch tóc trên đầu Lý Thuần Như.

Lý Thuần Như thật cười dở khóc dở, thầm nghĩ đằng nào thì tóc bị cạo cũng sẽ mọc lại, nhưng mình không thể nào cam chịu để kẻ khác sắp đặt ở lại đây làm hòa thượng, bèn không nói gì nữa.

Lão hòa thượng cắt tóc Lý Thuần Như xong, tra đao trở vào vỏ và trao cho Lý Thuần Như. Lý Thuần Như đón lấy, cảm thấy ngọn đao này xem nhẹ như không, hẳn là một kỳ trân thượng cổ.

Lý Thuần Như đã đoán không sai, ngọn đao này có tên là Càn Thiên Nhất Nguyên, Phích Lịch Thần Đao, là một món binh khí xuất sắc thời thượng cổ.

Sau đó, lão hòa thượng lại đưa tay đặt lên đỉnh đầu Lý Thuần Như và nói:

- Giáo tông đã trở về, linh nghiệm bất diệt, nhớ!

Lý Thuần Như thầm nực cười, lão hòa thượng này rõ khéo làm bộ làm tịch, chả lẽ tiếng nói của lão lại có thể khiến mình nhớ lại những chuyện kiếp trước hay sao?

Đột nhiên, chàng thấy một luồng sức rất lạnh từ nơi huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu truyền xuống. Thoáng chốc, toàn thân Lý Thuần Như biến động ba lượt, luồng sức ấy mạnh và nhanh khôn tả, lại từ nơi yếu hại nhất dồn xuống, thật chẳng thể nào đề phòng được. Sau khi chấn động ba lần, Lý Thuần Như lại nghe xương cốt toàn thân kêu răng rắc, nội công đã khổ luyện mười mấy năm dài trong thoáng chốc đã hoàn toàn tiêu tan.

Lý Thuần Như nằm mơ cũng chẳng ngờ như vậy. Chàng bị Tát Thị Tam Ma đánh trọng thương, sau khi may mắn thoát chết, người tuy vô cùng suy nhược, song chân khí lúc đoạn lúc tục, vẫn còn có thể cứu chữa, giờ đây nội công đã tiêu tan, giống như một người chưa từng luyện võ bao giờ, cho dù khổ luyện mười mấy năm nữa cũng chưa chắc đã phục hồi lại được công lực như trước đây.

Lý Thuần Như quá kinh hãi, nhất thời chẳng thốt nên lời, thừ ra một hồi lâu mới nói:

- Đại sư… tại sao lại hãm hại tại hạ thế này?

Lão hòa thượng như không nghe thấy.

Lý Thuần Như biết là bây giờ mình nói cũng khó có thể rõ ràng được, chỉ thấy có người nhét hai quyển kinh vào tay, mơ mơ màng màng đến khi trời tối mới hoàn tất nghi lễ. Sau đó chàng bị xô đẩy vào trong một gian phòng, các tăng nhân lui ra, chỉ còn lại lão hòa thượng và Lý Thuần Như ở trong phòng.

Nếu là trước đây, dù bận rộn suốt ba ngày đêm thì Lý Thuần Như cũng chẳng mệt mỏi, song lúc này nội lực đã tan, chàng cảm thấy lưng đau ê ẩm, nhức đầu hoa mắt, uể oải nằm ngã xuống giường, mắt nhìn lên trần nhà, hồi lâu mới buông tiếng thở dài, cũng chẳng nhìn lão hòa thượng, cất tiếng hỏi:

- Đại sư, tất cả mọi sự đều do đại sư tạo ra phải không?

Lão hòa thượng giọng vẫn dịu dàng nói:

- Khúc đàn việt là người thông minh, hẳn là đã đoán ra được.

Lý Thuần Như tức giận, ngồi bật dậy nói:

- Tại hạ với đại sư không thù không oán, tại sao đại sư lại hãm hại tại hạ như thế này?

- Khúc đàn việt nói sai rồi, hiện tại nội lực của đàn việt tuy đã hoàn toàn tiêu tan, nhưng có thể trọn đời sống an nhàn trong Già Đương Tự, vậy chẳng tốt sao?

Lý Thuần Như buông tiếng thở dài:

- Việc đã thế này rồi, tại hạ cũng chẳng muốn nói nhiều, chỉ muốn biết vì sao lại làm như vậy?

- Khúc đàn việt, sau khi Phật sống Đan Châu Nhĩ tạ thế, lão tăng cùng hai vị Chuyển Luân Vương đã đi tìm đứa bé chuyển thế của ông, tìm mãi đến Hắc Thủy Đảo mới gặp được Khúc đàn việt…

- Vậy là sai rồi, tại hạ quả thật là họ Lý, sao cứ gán ép tại hạ họ Khúc thế này?

Lão hòa thượng cười nói:

- Khoan hãy nói đến vấn đề ấy, đằng nào tôn giá cũng giống hệt Hắc Thủy đảo chủ, cho dù tôn giá đúng thật là không phải ấu tử của Khúc đảo chủ thì bây giờ ai còn truy cứu làm gì?

Lý Thuần Như nghĩ lão hòa thượng này mọi mặt xem ra đều như một vị cao tăng đắc đạo, chẳng ngờ lòng dạ lão lại bỉ ổi thế này. Mình chẳng may bị rơi vào tay lão, e kiếp này sẽ không còn có ngày rạng danh được nữa. Lý Thuần Như nghe lòng vô vàn chua xót, bất giác lại buông tiếng thở dài, lại nằm trở xuống giường.

Chỉ nghe lão hòa thượng nói tiếp:

- Thế nhưng, tôn giá lại không phải người Tây Tạng, nếu thật sự trở thành giáo tông của bổn giáo, thì sẽ gặp rất nhiều trở ngại, song bổn giáo không co giáo tông thì cũng khó thể duy trì lâu dài, do đó mới đón tôn giá đến Già Đương Tự, giáo tông vẫn là tôn giá…

Lý Thuần Như cười hăng hắc ngắt lời:

- Giáo tông trên danh nghĩa là kẻ này, nhưng trên thực tế lại là đại sư, đúng vậy không?

Lão hòa thượng lớn tiếng tuyên tiếng phật hiệu:

- A Di Đà Phật! Khúc đàn việt đã nghĩ đúng, làm vậy tuy không hợp ý tôn giá, nhưng dù sao Già Đương Tự cũng đã có chủ.

Lý Thuần Như khoát tay:

- Thôi, đại sư hãy lui ra đi!

Lão hòa thượng cười:

- Nơi đây chẳng khác nào thế ngoại đào nguyên, Khúc đàn việt cứ ở đây mà an cư trọn đời.

- Vì sao? Chả lẽ sau khi đại sư chết, kẻ này cũng tiếp tục ở lại đây hay sao?

Lão hòa thượng gật đầu:

- Tất nhiên, khi nào lão tăng chết, sẽ khắc có người tiếp nhận chức trưởng lão, lúc bấy giờ lão tăng có thể tỏ bày sự thật với người ấy, sau đó cũng sẽ giống như lão tăng vậy thôi, khuyên tôn giá không nên sinh lòng khác là hơn.

Lý Thuần Như vô cùng tức tối, buông tiếng cười gằn rồi không nói gì nữa, lão hòa thượng bèn rút lui ra khỏi phòng. Lý Thuần Như một mình ở trong phòng, buồn bực suốt nửa ngày trời, nghĩ số phận mình quả là lắm truân chuyên, giờ đây lại trở thành tăng nhân Hoàng Giáo, phải ở đây đến suốt đời trọn kiếp.
Thông Thiên Bửu Long

Thật ra ngay khi vừa trông thấy cảnh trí của Già Đương Tự cũng đã có ý nghĩ được trọn đời sống bình yên tại đây, song đó là mình cam tâm tự nguyện chứ không phải bị người dùng thủ đoạn làm hại.

Lão hòa thượng công lực cao thâm thế kia, muốn phản đối lão ta, đó thật là một điều hoàn toàn vô vọng.

Lý Thuần Như cởi áo cà sa để lên bàn, chợt nhớ hai quyển kinh Linh Tàng Bửu Lục hãy còn trong tay mình, hiện mình tuy võ công đã mất, nhưng nếu có kỳ thư võ học tuyệt đỉnh Linh Tàng Bửu Lục trong tay, tập luyện vài năm có lẽ võ công sẽ càng cao hơn trước.

Nghĩ đoạn, Lý Thuần Như lại cảm thấy vui mừng, bèn lấy hai quyển kinh Linh Tàng Bửu Lục ra, thấy ngoài bìa ghi rõ là quyển thứ nhất và quyển thứ nhì, tiện tay giở ra, trang đầu tiên toàn là Tạng Văn, Lý Thuần Như hoàn toàn không hiểu, biết là do Phật sống Đan Châu Nhĩ đã viết, cũng may bản thân kinh thư là hán tự, còn có thể xem hiểu, lại sợ xem giữa chừng thì bị lão hòa thượng thu hồi, bèn quyết định sao chép lại toàn bộ.

May thay, trong phòng có sẵn giấy bút, suốt một đêm, Lý Thuần Như đã chép xong hết hai quyển kinh Linh Tàng Bửu Lục và kể cả Tạng Văn do Phật sống Đan Châu Nhĩ đã viết, chàng cũng y theo từng nét viết lại, bởi chàng nghĩ mình sẽ ở đây chẳng rõ đến bao giờ, sớm muộn gì cũng học biết Tạng Văn, khi luyện tập cũng tiện lợi hơn.

Hôm sau, lão hòa thượng lại đến quả nhiên lão thu hồi hai quyển Linh Tàng Bửu Lục.

Lý Thuần Như cười thầm, nghĩ nếu một mai mình luyện thành võ công, không giết chết lão giặc trọc này để tiết hận thì cũng uổng làm người.

Liên tiếp mấy hôm, Lý Thuần Như đều mặc ai đặt đâu ngồi đó như là bù nhìn.

Một tháng trôi qua, Lý Thuần Như đã hiểu rõ giáo tông cần phải làm gì, đằng nào mọi sự đều do người điều khiển, và lão hòa thượng như cũng hoàn toàn yên tâm, Lý Thuần Như mới dám lén lút nghiên cứu Linh Tàng Bửu Lục vào lúc đêm đến.

Lý Thuần Như tuy đã có căn cơ về võ học cũng khá, song Linh Tàng Bửu Lục là một bộ kinh điển tinh ảo nhất trong Phật môn, có thể dẫn thẳng đến thân pháp kim cang bất hoại, Lý Thuần Như trong nhất thời làm sao thông hiểu được?

Song chàng quyết không sờn lòng, mỗi ngày chỉ cần có thời gian rảnh là lén lút luyện tập, thấm thoát nửa năm đã trôi qua.

Trong thời gian ấy, toàn thể tăng nhân áo vàng trong chùa, Lý Thuần Như chỉ có thể trò chuyện với một mình lão hòa thượng già ấy mà thôi.

Lý Thuần Như cũng đã biết lão hòa thượng ấy pháp danh Hiển Thắng, là trưởng lão Già Đương Tự, địa vị trong giáo chỉ thấp hơn mỗi mình giáo tông.

Trong nửa năm qua, Lý Thuần Như tuy ngày đêm không ngừng nghiên cứu Linh Tàng Bửu Lục, song kết quả thu được cũng chẳng nhiều. Chàng tự biết một môn võ học tuyệt đỉnh như Linh Tàng Bửu Lục, đâu thể chỉ một hai năm là đã có thể am tường.

Ngoại trừ thỉnh thoảng chàng không khỏi nhớ đến song thân và Đào Lâm, ở trong Già Đương Tự này tuyệt đối không phải lo nguy hiểm đến tính mạng. Mặc dù khi sờ lên cái đầu nhẳn bóng của mình, chàng thấy ở đây lâu dài không phải là thượng sách, song cũng quen dần với cuộc sống bình lặng trong hiện tại, một lòng một dạ chuyên cần nghiên cứu Linh Tàng Bửu Lục.

Trong khi Lý Thuần Như sống êm đềm trong Già Đương Tự thì chốn võ lâm Trung Nguyên lại xảy ra sóng gió kinh hoàng, nguyên nhân bắt nguồn chính là từ gia đình họ Thương ở Tứ Xuyên, một thế gia võ học lừng danh trên giang hồ tất cả hơn sáu mươi người thảy đều thảm tử.

Người phát hiện vụ thảm sát tại Thương Gia Bình là Kim Thần Ngũ Lâm, một hảo hớn vùng Hồ Bắc, một thân hoành luyện ngoại công vang danh võ lâm.

Ngũ Lâm bởi có việc ngang qua Tứ Xuyên, y rất có giao tình với những người thuộc đời thứ nhì thứ ba của nhà họ Thương nên tiện đường đến viếng thăm, song chưa đến Thương Gia Bình đã nhận thấy tình hình khác lạ, trên đường đầy xác chó và gà, thảy đều dập xương gãy cốt.

Ngũ Lâm nhìn qua biết ngay những con vật ấy là do cao thủ nội gia cực cao đã dùng nội lực đánh chết, không khỏi hết sức lấy làm lạ, bởi kẻ có nội công tuyệt đỉnh thế này đều là cao thủ võ lâm, tôn sư một giáo phái, vì sao lại hạ độc thủ với súc vật như thế này?

Trên đường đi, xác động vật mỗi lúc một nhiều, cả trâu bò heo ngựa cũng phơi xác khắp nơi.

Kim Thần Ngũ Lâm càng thêm kinh ngạc, vừa phi thân vào đến trong trang đã phát hiện xác người ngổn ngang, cả trang viện không còn một người sống sót.

Ngũ Lâm kinh hãi tột cùng, lập tức quay người bỏ đi. Chưa đầy nửa tháng sau, toàn võ lâm đều đã hay biết về vụ thảm sát tại Thương Gia Bình.

Thế nhưng vụ thảm sát ấy đã do ai gây ra? Không một ai được rõ!

Đương nhiên, trên thực tế chẳng phải không một ai biết, ít ra cũng có bốn người biết rõ, đó

là Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ, Đào Lâm cùng hai người may mắn sống sót là Thương Chân và Thương Phát.

Vào hai hôm trước khi Ngũ Lâm đến Thương Gia Bình, bấy giờ tất cả mọi người trong nhà họ Thương vẻ mặt đều hết sức nặng nề, bởi họ phóng hỏa thiêu đốt căn nhà đá đã hai ngày nhưng tiếng cười quái dị của Dị Cư Hồ vẫn không ngớt từ trong lầu đá vọng ra.

Mặc dù ngôi lầu đá này hết sức kiên cố, mỗi tảng đá đều nặng trên ngàn cân, với sức người tuyệt đối không thể thoát ra được, song mọi người cũng không nén được sợ hãi, bởi danh tiếng của Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ quả thật quá lẫy lừng, ngay cả Ma Giáo từng làm khiếp đởm võ lâm khi xưa mà còn bị tiêu tan dưới tay lão ta, thử nghĩ đã bao năm trôi qua, võ công Dị Cư Hồ hiện nay cao siêu đến mức độ nào.

Thế nhưng, mọi người không ai chịu tỏ ra mình hèn nhát, trái lại còn cố ra chiều phấn khởi, bảo là khi Dị Cư Hồ chết đi uy danh của Thương Gia Bình sẽ vang lừng đến tột bậc.

Trong số đó chỉ có hai người, Thương Chấn và Thương Phát tuy trẻ tuổi nhưng rất hiểu biết. Sau khi phóng hỏa thiêu đốt lầu đá cả ngày trời mà bên trong vẫn vọng ra tiếng cười của Dị Cư Hồ, hai người đã khuyên Thương Linh hãy ngưng ngay việc phóng hỏa và nhận lỗi với Dị Cư Hồ, chỉ cần Dị Cư Hồ chịu hứa là sau khi ra khỏi lầu đá sẽ không trả thù thì hãy thả lão ta ra.

Nhưng Thương Linh đã không đồng ý. Hai người âm thầm bàn bạc, đều nhận thấy việc giam hãm Dị Cư Hồ trong lầu đá không phải là một điều tốt lành, vừa lúc Thương Gia Bình cần phái người đi mua vật dụng, hai người bèn nhận công tác rời khỏi Thương Gia Bình.

Nói về Dị Cư Hồ và Đào Lâm bị giam trong lầu đá, thấy người trong Thương Gia Bình đã phóng hỏa đốt lầu, Dị Cư Hồ tức giận đến tột độ.

Song lão biết vách đá ngôi lầu này rất dày, thiêu đốt hai ba ngày chưa chắc đã thấu, chỉ cần trong thời gian ấy nghĩ ra được cách thoát thân thì vẫn có thể tìm ra được cách báo thù tiết hận, nóng nảy cũng vô ích, nên lão liền bình tâm trở lại.

Còn Đào Lâm thì nghĩ tuy mình chết đi, nhưng Lý Thuần Như sẽ được yên ổn, nàng lại cảm thấy vô vàn an ủi, yên lặng ngồi dưới đất, chỉ miên man nhớ về những cảnh tượng bên nhau với Lý Thuần Như.

Đến đêm, từ lỗ nhỏ trên nóc lầu nhìn ra, ánh lửa rực đỏ cả bầu trời.

Dị Cư Hồ chấp tay sau lưng đi tới đi lui, bỗng buông tiếng cười vang, lướt đến bên Đào Lâm nói:

- Phu nhân, Dị mỗ đã có cách thoát thân rồi.

Đào Lâm giật nẩy mình, nghĩ nếu thoát được lầu đá này, rồi đây sẽ lại càng gặp nhiều đau khổ. Song nghĩ lại, làm sao có hy vọng thoát khỏi được ngôi lầu đá này?

Nên nàng ơ hờ nói:

- Phu quân, định số đã an bài, chúng ta phải táng thân tại đây rồi, phu quân nói vậy để an ủi thiếp chứ gì?

Dị Cư Hồ cười nói:

- Dị mỗ đã nói có cách thoát thân là có cách thoát thân, hà tất dối gạt phu nhân làm gì?

Đào Lâm kinh hãi:

- Thoát thân bằng cách nào?

Dị Cư Hồ cười rạng rỡ:

- Bọn nhà họ Thương hấp tấp quá, nếu họ cứ bỏ mặc chúng ta ở trong này, không ngó ngàng đến, tối đa một tháng là chúng ta sẽ chết đói. Nhưng họ lại quá nóng nảy, phóng hỏa thiêu lầu, như vậy đâm ra lại tạo con đường sống cho chúng ta.

Đào Lâm nghe vậy vô cùng thắc mắc, nghĩ vách lầu đá tuy dày, nhưng thiêu đốt hai ba ngày cũng sẽ nung đỏ hết, lúc ấy còn nấp vào đâu được nữa? Đó chẳng phải mơ tưởng hão huyền là gì?

Do đó, nàng cũng chẳng màng đến. Nhưng thấy Dị Cư Hồ quả là vui mừng thật sự chứ không phải là giả dối, nghĩ có lẽ lão ta cả đời cao ngạo, nay lại bị lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng nên mới có vẻ thất thường như vậy.

Đêm hôm ấy, Dị Cư Hồ đã ngủ một giấc say sưa. Hôm sau, trong lầu đá đã nóng rực, Dị Cư Hồ phi thân lên sờ vào vách đá, cười quái dị nói:

- Vẫn chưa đủ nóng.

Đào Lâm thấy vậy càng cho là mình đã nghĩ đúng. Lửa rừng rực lại thiêu đốt một ngày, trong lầu đã nóng đến mức cơ hồ ngạt thở.

Đào Lâm tình cờ chạm vào vách đá, nóng đến mức cơ hồ bỏng da, nhưng Dị Cư Hồ lại càng thêm vui mừng, thỉnh thoảng lại buông tiếng cười vang. Đành rằng nội công lão tinh thâm vô cùng, song lúc này cũng toàn thân ướt đẫm mồ hôi.

Đào Lâm nóng đến cơ hồ ngạt thở, nàng hít sâu một hơi không khí, lẩm bẩm nói:

- Thế là hết, cuộc đời kể như kết thúc tại đây.

Dị Cư Hồ nghe vậy liền đến cạnh nàng, cười nói:

- Phu nhân sao lại nói vậy? Chúng ta đã sắp có thể thoát ra khỏi đây rồi.

Đào Lâm ngẩng lên, chỉ thấy ánh mắt Dị Cư Hồ rực lên vẻ kỳ dị, chứng tỏ trong lòng lão rất là vui mừng, và trong ánh mắt ấy còn ngập đầy sát cơ, chứng tỏ trong lòng lão đã tính đến việc báo thù tiết hận.

Đào Lâm kinh ngạc hỏi:

- Phu quân… có cách gì để thoát thân?

Dị Cư Hồ cười ha hả:

- Đương nhiên là mở rộng cửa đi ra rồi.

Đào Lâm phì cười:

- Phu quân đã có thể mở cửa, tại sao không mở sớm để khỏi phải chịu khổ sở thế này?

Dị Cư Hồ lại cười:

- Hiện thời cơ chưa đến, không nên vọng động.

- Chỉ sợ khi thời cơ đến là chúng ta đã trở thành tro than rồi.

- Phu nhân không tin chúng ta có thể thoát thân ư?

Đào Lâm quả quyết:

- Không tin!

Dị Cư Hồ đưa mắt nhìn Đào Lâm một hồi mới hỏi:

- Xem ra phu nhân rất muốn chết tại đây phải không?

Đào Lâm vốn rất ghê sợ Dị Cư Hồ, song lúc này hai người đã sắp chết đến nơi, nỗi sợ hãi trong lòng đã tiêu tan, nên cười to nói:

- Đúng vậy!

Dị Cư Hồ sầm mặt:

- Vì sao?

Đào Lâm càng cười to hơn:

- Vì sao ư? Đương nhiên là Đào Lâm này chết tại đây thì tốt hơn, chả lẽ lại làm vợ lão suốt đời? Chả lẽ lại còn mong muốn lão thoát khỏi đây để rồi sát hại Lý Thuần Như hay sao? Ha ha, chúng ta dẫu sau cũng là vợ chồng, chết chung với nhau tại đây thì cũng tốt thôi.

Dị Cư Hồ mặt lạnh như tiền nghe nàng nói xong mới lạnh lùng nói:

- Phu nhân đã hoàn toàn sai rồi.

Đào Lâm nhoẽn miệng cười thật ngọt:

- Thiếp thật đã sai thế nào? Xin phu quân chỉ giáo cho!

Dị Cư Hồ mắt rực tinh quang:

- Tối đa một giờ nữa là chúng ta đã có thể ra khỏi đây, chúng ta vẫn sẽ tiếp tục là vợ chồng, và Lý Thuần Như cũng sẽ phải chết dưới tay Dị Cư Hồ này.

- Những mong là vậy.

Dĩ nhiên đó là câu nói mai mỉa của Đào Lâm, bởi nàng nhận thấy cho dù võ công Dị Cư Hồ cao đến mấy thì cũng không thể thoát khỏi ngôi lầu đá này được.

Thế nhưng, nàng nghe Dị Cư Hồ nhắc đi nhắc lại là nhất định có thể thoát thân, cũng không khỏi hết sức thắc mắc, nên lại hỏi:

- Nếu một giờ nữa đã có thể thoát khỏi đây, hãy nói thử xem chúng ta sẽ thoát thân bằng cách nào?

Dị Cư Hồ cười sắc lạnh:

- Dị mỗ đã nói rồi, chúng ta sẽ đẩy cửa ra, ngang nhiên đi ra.

Đào Lâm nghe vậy liền nghĩ, lúc này trong đây tuy nóng khủng khiếp, nhưng ngay cả chính mình còn chưa mấy lý trí, đương nhiên Dị Cư Hồ cũng chẳng đến nỗi thất thường, chả lẽ lão quả có cách thoát ra từ cửa thật ư?

Lại nghe Dị Cư Hồ cười nói:

- Phu nhân, Dị mỗ cũng xin nói thật, nếu bọn nhà họ Thương mà không phóng hỏa, chúng ta thật chẳng thể nào thoát khỏi đây được, nhưng bọn họ đã phóng hỏa, như vậy lại đâm ra cứu giúp chúng ta.

Đào Lâm vẫn chưa hiểu, chỉ trố mắt nhìn Dị Cư Hồ.

Dị Cư Hồ hai tay chắp sau lưng, tuy khắp người đã ướt đẫm mồ hôi, song lại ra chiều rất vui mừng, nói:

- Phu nhân, cánh cửa đá tuy nặng, nhưng Dị mỗ thừa sức đẩy mở, vậy mà chúng ta vẫn bị giam hãm trong đây, phu nhân có hiểu vì sao không?

Lúc bước chân vào đây, Đào Lâm có trông thấy trên cửa đá có xích sắt nối liền, bèn nói:

- Dĩ nhiên là vì trên cửa có khóa xích sắt nên chúng ta mới không đẩy được.

Dị Cư Hồ cười vang:

- Đúng vậy, lửa đã cháy suốt một ngày đêm, có lẽ xích sắt cũng sắp nóng chảy hết ra rồi.

Đào Lâm nghe vậy liền vỡ lẽ, với sức lửa mạnh thế này, quả là xích sắt sẽ nóng chảy, và một khi xích sắt đã nóng chảy, cửa đá dĩ nhiên là có thể đẩy mở.

Đào Lâm vừa nghĩ đến đó, bất giác thừ ra tại chỗ.

Dị Cư Hồ lại đi tới đi lui, hơn nửa giờ sau, bỗng cất tiếng huýt dài, đoạn nói:

- Có lẽ được rồi.

Lướt nhanh đến bên thi thể hai vợ chồng Lý Viễn, lão cười ghê rợn nói:

- Lý bằng hữu, còn phải nhờ tôn giá một phen nữa.

Đoạn lão vươn tay xách hai tử thi lên, xông đến gần cửa “bộp bộp” hai tiếng, đã dán hai tử thi vào vách đá. Lập tức, tiếng “xèo xèo” vang lên và bốc mùi khét gớm ghiếc.

Dị Cư Hồ hai tay đè lên hai tử thi làm đệm, chân khí vận chuyển, buông tiếng quát to, dồn hết sức bình sanh đẩy mạnh, chỉ nghe “kẹt” một tiếng, cánh cửa đá quả nhiên đã bị đẩy ra nửa thước.

Cánh cửa đá vừa bật mở, lửa khói liền tức thì ập vào. Dị Cư Hồ lại ra sức đẩy mạnh, cửa đá lại mở rộng thêm một thước, rồi mới lùi nhanh ra sau, mặc dù lão hành động cực nhanh, song đầu tóc và y phục cũng bị bốc cháy vài chỗ.

Dị Cư Hồ vừa lui ra, liền lập tức nhào lăn xuống đất, dập tắt lửa trên mình, đoạn cắp lấy Đào Lâm dưới nách, cất tiếng huýt vang, người như gió cuốn lao vào lửa đỏ.

Đào Lâm bị cắp dưới nách, chỉ nghe bên tai có tiếng gió vụt vù, rồi bỗng nhẹ người, đã lại trông thấy đất trời, và tiếng cười dài kinh tâm động phách của Dị Cư Hồ cũng liền tức thì vang lên, đến khi nàng định thần nhìn kỹ thì đã có năm sáu người bị chưởng lực của Dị Cư Hồ đánh bắn ra xa.

Những người trong Thương Gia Bình vốn đã nơm nớp lo âu, song nằm mơ cũng không ngờ Dị Cư Hồ lại từ trong lửa đỏ xông ra. Mặc dù trong số đó cũng có cao thủ bậc nhất, song bởi quá bất ngờ nên thảy đều thừ ra tại chỗ, mãi đến khi năm sáu người bị Dị Cư Hồ đánh chết mới giật mình bừng tỉnh, buông tiếng hô vang rồi bỏ chạy tán loạn.

Song Dị Cư Hồ đã thoát ra được, đâu còn để cho người của Thương Gia Bình có thể đào tẩu, trong tiếng cười dài vang dội, bỏ Đào Lâm xuống, người như làn khói lượn nhanh một vòng, lại có bảy tám người bị chộp trúng ngực, thảy đều hiện ra năm lỗ sâu hoắm, chết ngay tức khắc.

Dị Cư Hồ đầu tóc xõa tung, mồ hôi nhễ nhại, áo quần cháy nám và mặt mày đầy tro bụi, lão lướt đến đâu là xác người gục ngã đến đó, trông khủng khiếp hệt như ác ma.

Nhưng người trong Thương Gia Bình dẫu sau cũng chẳng phải hạng tầm thường, trong cảnh hổn loạn, chỉ nghe một giọng nữ lanh lảnh nói:

- Mọi người hãy bình tĩnh nào!

Rồi một người đàn bà trung niên tay cầm chùy đồng tám ngạnh tiến ra, chính là Thương Linh, theo sau là Thương Sở Bình và bốn cao thủ đời thứ hai.

Nhóm người này vừa hiện thân, tình hình liền lắng dịu khá nhiều, gần bốn mươi người còn lại cũng không hốt hoảng nữa, xếp thành hình vòng cung đứng sau lưng nhóm người mới xuất hiện.

Chỉ thấy Thương Linh nháy mắt ra hiệu với Thương Sở Bình. Thương Sở Bình hiểu ý, liền cùng hai mươi mấy người di chuyển sang bên hơn một trượng, thế là hình vòng cung đã trở thành hình vòng tròn, bao vây Dị Cư Hồ và Đào Lâm vào giữa, đồng thời mỗi người đều đã rút binh khí ra cầm tay.

Một trong hai tuyệt kỹ tổ truyền của Thương gia chính là Toàn Phong Chùy Pháp, lúc này mấy mươi người trong tay đều lăm lăm ngọn chùy đồng sáng loáng, dưới ánh nắng trông hết sức ngoạn mục. Qua đó chứng tỏ Thương gia quả có trình độ phi phàm về võ học, trong tình thế tệ hại như vậy mà cũng còn bày bố được một thế trận hết sức chặt chẽ. Phải chi lúc Dị Cư Hồ xuất hiện mà họ đã lập tức bày ra thế trận này ứng phó thì đâu đến nỗi chết nhiều người thế này.

Dị Cư Hồ quay người một vòng, buông tiếng cười dài, trong lòng cũng bội phục phần nào, trầm giọng nói:

- Ngôi lầu đá kiên cố thế kia mà còn chẳng giam được Dị mỗ, thế trận chùy đồng rời rạc thế này mà định giam hãm Dị mỗ ư?

Những người Thương gia im lặng nghe lão nói, họ thật chẳng sao hiểu nổi bằng cách nào mà Dị Cư Hồ ra khỏi được ngôi lầu đá, nên mọi người đều hết sức kinh hãi, chờ xem Thương Linh ứng phó thế nào.

Chỉ nghe Thương Linh nói:

- Dị tiên sinh quả nhiên thần thông quãng đại, thật khó ai bì kịp.

Dị Cư Hồ cười khẩy:

- Đến bây giờ mới dùng lời ngon ngọt với Dị mỗ thì đã quá muộn rồi.

Thương Linh biết Thương Gia Bình

đã gặp đại kiếp, kéo dài thời gian cũng chẳng ích gì, nên cười khanh khách nói:

- Dị tiên sinh nghĩ chúng tôi phải dùng lời ngon ngọt, đó là tiên sinh đã nhầm rồi.

Vừa dứt lời đã chụm môi huýt dài, lập tức tám người cầm chùy đồng tiến tới mấy bước, buông tiếng quát vang, chỉ thấy ánh vàng lấp loáng, tám người đã nhất tề xông tới tấn công Dị Cư Hồ.

Toàn Phong Chùy Pháp của Thương gia gồm có tám chiêu, và tám người cùng lúc tấn công, mỗi người sử dụng một chiêu thức khác nhau, lại càng biến hóa vô cùng, khiến đối phương hoa mắt không biết đâu mà lường.

Nhưng Dị Cư Hồ chẳng chút nao núng, hai tay chắp sau lưng, ngoảnh đầu nói:

- Phu nhân, hãy cẩn thận.

Vừa dứt lời, tám người đã cùng lúc công đến, nhưng Dị Cư Hồ cũng đã nhanh nhẹn sấn tới một bước, vung tay chộp lấy một ngọn chùy đồng và đẩy mạnh sang bên, người ấy không kềm được, loạng choạng tạt sang bên hai bước “coong coong” hai tiếng, ngọn chùy đồng của y đã va vào chùy đồng của hai người khác, và khi đẩy, Dị Cư Hồ đã dồn nội lực vào chùy, thế là cả ba người cùng rú lên thảm thiết, ngã bật ra chết ngay tức khắc.[/

ĐẾN TRANG
Thông Tin
Lượt Xem : 8351
Tác Giả : Sưa Tầm
GỬI BÌNH LUẬN