--> Ngoảnh lại hóa tro tàn - game1s.com
Polaroid

Ngoảnh lại hóa tro tàn

áo hoang vô tình lạc vào khu vườn bỏ không, chẳng hề có một bóng người. Nó phát hiện trong vườn có con cáo đá, trông sống động như thật. Con cáo hoang nhỏ vốn quen những ngày lang bạt cô đơn, liền coi con cáo đá như đồng loại duy nhất của mình trên thế gian này. Nó ở lại trong vườn bầu bạn với cáo đá qua rất nhiều năm. Cáo đá không biết cử động, càng không biết kêu, cả người lạnh cóng. Con cáo hoang nhỏ suốt ngày quẩn quanh bên cáo đá, nó trộm nghĩ, nếu cáo đá trở thành cáo thật thì hay biết mấy. Thế là nó tìm tới Đức Phật.”

“Đức Phật nghe thấy lời cầu khẩn của loài người ư?”, Phương Đăng tỏ ra nghi ngờ vô cùng “… Huống hồ chỉ là một con cáo.”

Phó Kính Thù mặc kệ nó, nói tiếp: “Phật hỏi cáo hoang, trên đời cái gì quý nhất. Cáo hoang trả lời, thứ không thể có được và thứ đã mất. Phật nhận ra cáo hoang rất có linh tính, cảm được lòng thành của nó, bèn đem tới một cơ hội: nếu muốn cáo đá trở thành cáo thật, trừ khi nó moi tim mình ra hiến cho bạn.”

“Phật Tổ xui dại nó rồi !”

“Vì quá mong cáo đá trở thành vật thật, có máu có thịt làm bạn mình cùng mình, nên con cáo hoang đã nhịn đau moi tim ra, theo chỉ dẫn của Phật Tổ, đem nhét vào lồng ngực cáo đá. Bức tượng cáo thật sự bắt đầu cử động, nó đã có sinh mạng và ý chí của mình. Con cáo hoang nhỏ mừng lắm, cảm thấy sự hy sinh của mình là đích đáng. Hai con vật cùng nhau trải qua một khoảng thời gian vô cùng vui vẻ.”

“Giống như Tiểu Xuân cô nương và ông nội anh, chắc họ từng rất vui vẻ.”

“Chẳng biết từ lúc nào, con cáo đá dần cảm thấy cô đơn. Nó chán ngấy việc bị giam trong khu vườn hoang. Ngoài kia, trời cao đất rộng đang vẫy gọi, thậm chí có còn muốn trở thành người, đi khắp nơi ngắm nhìn thế giới.”

“Nghe nói hồ ly mà thành tinh, sẽ biến thành người.”

“Con hồ ly đá mà thành tinh, sẽ biến thành người.”

“Con hồ ly đá rất thông minh, nó thật sự đã tu thành chính quả, không những có được hình dáng con người, sau này còn có thể liệt vào hàng thần tiên. Vậy là, nó rời xa khu vườn hoang phế.”

“Nó không đưa con cáo hoang nhỏ theo?” Phương Đăng hơi thất vọng.

“Cáo đá không nỡ bỏ người bạn trước kia, nhưng con cáo hoang mãi là cáo hoang, vĩnh viễn không thể thoát khỏi xác cáo, làm sao đưa nó theo được ? Huống hồ, cáo đá giờ đã là người, nó không muốn nhớ đến nỗi khổ dãi nắng dầm mưa ngày xưa, con cáo hoang kia chỉ nhắc nó nhớ về hình dạng trước đây mà thôi.”

“Cáo nhỏ kia thật đáng thương, hiến đi trái tim, cuối cùng chẳng còn lại gì ình.” Phương Đăng bắt đầu cảm thấy, câu chuyện Tiểu Xuân cô nương kể là về bản thân bà và Phó Truyền Thanh, cũng có thể dùng để miêu tả chuyện của cô Chu Nhan và Phó Duy Nhẫn, nói không chừng mỗi một đôi trai gái hận tình trên đời, đều có một người là cáo đá hóa thành, còn người kia là con cáo hoang nhỏ ngốc nghếch dại khờ.

“Biết làm thế nào đây ? Đó là lựa chọn của chính nó lúc đầu. Cáo đá đi rồi, con cáo nhỏ cả ngày quanh quẩn trong khu vườn. Bởi không có tim, nó không già cũng không thể chết, càng vĩnh viễn không thoát khỏi lốt cáo. Trước mặt nó là ngày tháng và nỗi cô đơn vô cùng vô tận.”

“Sao nó không đi khỏi vườn cho rồi.”

“Nó sợ có một ngày cáo đá quay về. Hơn nữa ngày xưa trước mặt Phật Tổ nó đã hứa, giờ cáo đá tu luyện thành người, nó bắt buộc phải thay cáo chịu hình phạt ngàn năm.”

“Đủ rồi, tôi đã hiểu vì sao Tiểu Xuân cô nương không muốn sống tiếp. Phụ nữ toàn là đồ ngốc. Nhưng Phật Tổ cũng kỳ, sao nhất định phải tàn nhẫn như thế ? Sao không cho con cáo nhỏ cơ hội lựa chọn một lần nữa.”

“Chuyện chỉ là chuyện. Hồ ly nhỏ dù gì cũng được trường sinh bất lão. Đời người liệu có cái gọi là ‘một lần nữa’ không ? Cho dù có, bao nhiêu người có thể chịu được đến ngày ấy?” Phó Kính Thù nhìn cái lỗ giếng như một ám thị.

Phương Đăng vẫn chưa dứt khỏi câu chuyện kia, chẳng thể nào nạp mớ diễn giải nhiêu khê của Phó Kính Thù vào đầu. Lòng nó buồn bã hoang mang.

“Chắc chắn Tiểu Xuân cô nương chưa kể hết, câu chuyện này không nên có kết thúc như vậy !”

“Đồ ngốc.” Phó Kính Thù cười, con bé này sao lại nghiêm túc quá vậy. Cậu nhắm nghiền đôi mắt, không nói gì nữa.

“Tôi không thích câu chuyện này.” Phương Đăng buồn bực nhổ hết những ngọn cỏ đuôi chó mọc dưới chân, định nói mấy lần rồi lại thôi. Khá lâu sau, hơi thở của Phó Kính Thù trở nên đều đặn, Phương Đăng ngờ là cậu ngủ mất rồi. Bất chợt nó thầm thì: “Tiểu Thất, anh đừng đi nhé.”

Chẳng nghe tiếng ai trả lời, chỉ nghe gió rì rào. Phương Đăng đưa mấy cọng cỏ đuôi chó vốn chẳng có mùi gì lên mũi hít hà, rồi dần nhắm mắt lại. Đảo Qua Âm quanh năm ướt át ủ dột, hiếm khi có một ngày đẹp trời thế này.

“Tôi mà đi, em có buồn không?”, giọng của Phó Kính Thù bảng lảng trong gió.

“Anh đoán xem.” Ai mất đi đồng loại duy nhất mà không đau đớn cho được. Dẫu là người hay hồ ly đi nữa.

“Tôi đi đâu được?” Giọng Phó Kính Thù chẳng buồn chẳng vui, “Cha tôi đi rồi, có lẽ cả đời tôi sẽ trôi qua ở đây. Thì đã sao ? Trước đây ngày nào tôi cũng dặn mình phải vươn lên, không được để người khác coi mình là đồ con hoang, phải nhận tổ quy tông bằng được, chưa bao giờ nghĩ rằng, cuộc đời tôi khi còn có ngã rẽ khác để lựa chọn. Trong cơn sốt mê man, tôi tưởng mình sắp chết, sau này tỉnh lại, chợt nhận ra sở dĩ tôi chịu đựng được tất cả, không phải để danh chính ngôn thuận làm người nhà họ Phó, mà là vì vẫn còn ai đó hy vọng tôi sống.”

“Ai?” Phương Đăng giả ngây. Miệng hỏi thế, nhưng mặt thì bắt đầu đỏ lên.

Phó Kính Thù không đáp, chỉ nói: “Lúc đó tôi bắt đầu cảm thấy, những người kia có thừa nhận mình đi nữa thì đã sao ? Bao nhiêu năm không được thừa nhận tôi vẫn sống bình thường đó thôi ? Không được hưởng phú quý nhà họ Phó, tôi vẫn là Phó Kính Thù, chẳng ai thay đổi được.”

“Nhưng những người đang ở nước ngoài là người thân của anh, anh không nhớ họ ư?”

“Người thân?” Phó Kính Thù vẻ như vừa nghe được một câu chuyện cười, “Tôi chẳng còn người thân nữa. Trừ em, Phương Đăng ạ.”

Gió thổi qua cây Bạch Ngọc Lan, qua rặng râu dài lê thê rủ bóng của cây đa già, nơi ấy ẩn giấu biết bao cặp mắt vô hình, ngồi xếp hàng nơi chân trời, cúi nhìn hai con người bé nhỏ chốn tục thế. Thưa Đức Phật, Phương Đăng niệm thầm trong bụng, cuối cùng con bé cũng chịu thừa nhận thần phật có tồn tại, Ngài đã lắng nghe lời khẩn cầu của nó. Phó Thất sẽ luôn ở bên nó/ Chúng là người thân, sẽ gắn bó với nhau, không thể tách rời… Chẳng phải nó luôn muốn như thế đó sao ? Ít ra, nó sẽ chẳng thể thay đổi định mệnh. Không rõ Phương Đăng đang mừng vui hay buồn bã. Nó muốn cười lên, muốn dựa vào lưng người ta, nhưng không hiểu sao khóe miệng chỉ toàn vị chua chát.



Chương 11: Tỏ Tường Như Gương



Đặt chân lên đảo, Lục Ninh Hải mới nhớ ra hôm nay là Giáng Sinh. Thời vợ ông còn sống, mỗi lần đến ngày này, thế nào bà cũng cùng con trai dành hẳn một ngày chuẩn bị. Ông về đến, sẽ trông thấy cả căn nhà treo đèn kết hoa rực rỡ, cùng một cây nguyệt quế được trang trí theo kiểu cây thông Noel. Giờ đây vợ đã mất năm năm, con trai đi học nội trú chẳng có bên mình, ngẫm lại chỉ càng thương tâm.

Gia đình vợ cả của ông là Hoa kiều từ Malaysia trở về, bố vợ thời trẻ từng nhận trách nhiệm quản lý cả một nhà máy cỡ lớn ở Pinang, cổ đông lớn của nhà máy này là một gia tộc người Hoa rất có danh vọng trong thành phố. Nhờ vào mỗi quan hệ và sự tiến cử của bố vợ, bốn năm trước, Lục Ninh Hải, lúc ấy chỉ mới chân ướt chân ráo bước vào giới luật sư, trở thành người đại diện về pháp lý của gia tộc đó ở đại lục, toàn quyền xử lý những vấn đề liên quan đến luật pháp của họ thuộc phạm vi trong nước. Dĩ nhiên, công việc này bao gồm cả nhiệm vụ giải quyết các “việc vặt” mà thân chủ không muốn đích thân xuất đầu lộ diện.

Hằng trăm năm trước, phong trào di dân về Nam Dương đã khiến không ít các đại gia tộc giàu có người Hoa ra nước ngoài định cư, trong đó đa phần xuất phát từ đảo Qua Âm. Gia đình mà Lục Ninh Hải đang phụng sự là một đại diện nổi bật trong đó. Ngày nay, đám con cháu nhà họ Phó tại Malaysia tuy không thể so sánh với cha ông thời điểm cực thịnh đầy quyền lực trước đây, nhưng duy trì được tổ nghiệp qua bốn đời, đã là vô cùng hiếm có. Năm xưa nhà họ Phó lên đường quá vội vã, từ đó về sau chỉ chú tâm kinh doanh ở Nam Dương, kết thông gia với vọng tộc địa phương, gầy dựng nền móng vững chắc tại Malaysia. Huống hồ trong nhà hiện nay vẫn còn người tài, chưa đến mức nhân lực cạn kiệt, cho nên tiếp tục duy trì và bảo tồn được sự giàu có của mình. Một gia tộc như vậy, trừ khi gặp phải biến cố trọng đại, hoặc xuất hiện tên phá gia chi tử ngoại hạng, nếu không chẳng thể lụn bại trong một sớm một chiều.

Các thành viên quan trọng trong đại gia đình họ Phó chủ yếu sinh sống tại hải ngoại, tài sản trong nước không còn lại nhiều, những việc Lục Ninh Hải được giao xử lý thường có liên quan đến thủ tục hoàn trả tài sản bị tịch thu từ chế độ cũ, thi thoảng họ để cho ông thay mặt người trong gia tộc thu xếp công việc. Mấy năm gần đây đảo Qua Âm dần trở thành một điểm du lịch hấp dẫn, từ thành phố ra đảo chỉ cần xuyên qua một cái vịnh, nhưng lần nào lên đảo Lục Ninh Hải cũng vội vội vàng vàng. Kể từ khi cùng bạn mở văn phòng luật sư riêng, công việc của ông luôn bù đầu, chẳng còn tâm trí đâu thưởng ngoạn phong cảnh. Hơn nữa những ngôi nhà, biệt thự cổ được coi là thắng cảnh đặc trưng của đảo, dưới con mắt của ông chẳng qua là một đống gia tài đổ nát đang trong giai đoạn tranh giành quyền sở hữu, thủ tục hành chính liên quân vô cùng rối rắm. Vậy mà hôm nay không biết do bất chợt nhớ tói người vợ đã chết, hay bởi đảo Qua Âm một ngày mùa đông bỗng trở nên xưa cũ trầm mặc lạ kỳ: những căn biệt thự cổ dãi dầu trăm năm nắng gió ẩn hiện dưới bóng lá xanh xám; tiếng chuông xe đạp thỉnh thoảng vang lên từ các xóm ngõ những tràng leng keng, leng keng; bài thánh ca từ giáo đường phiêu dạt giữa từng không… Khách ngoại lai tình cờ đi ngang cứ ngỡ mình lạc bước vào bức tranh cổ xưa nào đó. Lục Ninh Hải không nén được lòng rảo chậm bước chân.

Hôm nay Lục Ninh Hải lên đảo vì có công việc cần giải quyết. Cậu chủ trẻ tuổi thân thế phức tạp và lão gác vườn nhất mực trung thành đã đợi ông từ lâu. Còn nhớ, hai mươi hai năm trước cũng một ngày mùa đông thế này, ông mang theo một sứ mệnh quan trọng tương đương đến Phó gia viện. Đón ông lúc ấy cũng có hai người, có điều người gác vườn năm xưa lưng đã còng thêm nhiều, đứng bên lão đây là một gương mặt khác hẳn.

Phó Duy Nhẫn của hai mươi hai năm trước, hao gầy, xanh xao, ánh mắt tràn đầy vẻ bất an và mong đợi đến cuồng điên. Lục Ninh Hải mang đến cho anh ta di chúc của cha mình, anh ta tiếp nhận nó bằng tất cả mãn nguyện, bằng nhiều biểu cảm phức tạp khó thốt nên lời. Rất nhanh, Lục Ninh Hải giúp anh hoàn tất mọi thủ tục, trực tiếp đưa anh rời khỏi. Sau này Lục Ninh Hải không bao giờ gặp lại người đàn ông gầy gò đó nữa, vậy mà hình ảnh anh ta trong ký ức vẫn tươi nguyên như mới hôm qua. Thật không ngờ chớp mắt bao năm trôi đi, lần tiếp theo đặt chân lên đảo, lại là mang tin báo tử của Phó Duy Nhẫn cho con trai ông ta. Sự hệt nhau kinh người của vòng tròn định mệnh khiến một luật sư trung niên đầu trải nghiệm như ông cũng không kìm được tiếng than cho thế sự vô thường.

Theo trình tự pháp lý, Lục Ninh Hải cẩn thận trình ra giấy báo tử của Phó Duy Nhẫn, đồng thời thông báo rằng tro cốt của Phó Duy Nhẫn đã được an táng tại Malaysia. Ông còn mang về di vật khi còn sống của Phó Duy Nhẫn, chỉ là một vài đồ đạc tùy thân quan trọng. Vì ra đi quá đột ngột, Phó Duy Nhẫn không kịp để lại di chúc, Phòng Ba chưa chia nhà, nên tài sản mang tên ông tương đối có hạn, ngoại trừ một ít tiền mặt và tiền tiết kiệm, còn có một khoản quỹ ký gửi, dưới sự sắp xếp của bà Trịnh, quyền thừa hưởng lợi nhuận được chuyển sang cho con ông ta. Cũng tức là trước sinh nhật lần thứ hai mươi của đứa con, mỗi tháng cậu ta được nhận một món lợi tức, số tiền này không đủ để sắm sửa xa hoa, nhưng vừa vặn sống qua ngày. Đủ hai mươi tuổi, cậu có toàn quyền sử dụng phần quỹ ký gửi này. Từ nay về sau họ Phó không còn trách nhiệm bỏ ra bất cứ khoản tiền sinh hoạt phí nào cho con của Phó Duy Nhẫn, tất cả tài sản lử Malaysia cậu cũng không có quyền thừa kế.

Suốt buổi bàn giao, cậu con trai trẻ tuổi của Phó Duy Nhẫn có vẻ khá kiềm chế. Cậu đọc cẩn thận từng trang văn bản pháp lý, gặp phải thuật ngữ khó hiểu thì lễ phép đặt câu hỏi với Lục Ninh Hải. Cậu ta không hề đưa ra ý kiến về bất cứ điều khoản nào, cũng không quá quan tâm đến các tình tiết phân chia tài sản. Cuối cùng, cậu bình đạm ký tên mình vào giấy. Trong khi đọc và ký tên, cậu thậm chí còn không bỏ sót cử chỉ do dự tức thời của Lục Ninh Hải khi nhấc chén trà đưa lên miệng. Khách đến, lão quản vườn lập tức mang trà nóng hổi vừa pha lên mời, nhưng thời tiết quá băng giá, nước chốc lát đã nguội lạnh. Dạ dày Lục Ninh Hải không được khỏe, trà nguội khiến cơ thể ông biểu tình, nhưng vì phép lịch sự, chén đã đưa lên môi đành phải nhấp một ngụm.

Cậu thanh niên thấy thế liền đích thân pha lại trà mới. Lục Ninh Hải mở nắp ấm ra, thấy màu trà vàng sậm, hương trà Cống Mi cùng hơi nóng phả vào mặt, khiến ông vừa ngạc nhiên vừa thích thú. Quê ông là quê trà, nhưng người bản địa thường thích trà Thiết Quan Âm và Bạch Hào hơn, không hiểu cậu con trai còn ít tuổi này làm thế nào biết được sở thích của ông. Mặc dù làm việc cho nhà họ Phó nhiều năm nay, nhưng nói trắng ra, ông chỉ nghe lời một mình bà Trịnh, ít khi có liên hệ với người sống ở nhà tổ. Hay cậu ta nghe được đôi chỗ khẩu âm địa phương còn sót lại trong giọng nói ông mà đoán ước điều kia? Nếu đúng là như vậy, óc quan sát kia thực tỏ tường như gương.

Việc chính bàn xong, ấm trà mới uống hết một nửa. Lục Ninh Hải không vội vàng rời khỏi như mọi khi, mà vừa thưởng thức trà, vừa hàn huyên đôi câu chuyện với cậu thanh niên. Con trai của Phó Duy Nhẫn vẻ ngoài không mấy giống cha mình, có lẽ cậu ấy giống mẹ nhiều hơn. Lục Ninh Hải am hiểu tình hình nhà họ Phó, dĩ nhiên từng nghe nói những đồn đại về mẹ cậu, bèn cẩn thận tránh đề cập đến.

Chỉ mới tiếp xúc, Lục Ninh Hải đã cảm thấy đứa trẻ này dù tính cách lẫn bề ngoài không giống người cha Phó Duy Nhẫn nhưng lại rất có khí chất người nhà họ Phó trong cảm thức ông: tư duy nhanh nhẹn nhưng không vội vàng hấp tấp, nói chuyện có ý mà chẳng hề sỗ sàng, tâm tư thận trọng nhưng nói và làm đều dứt khoát. Người sáng mắt đều nhìn ra từ nhỏ cậu đã bị bỏ lại ở căn nhà hoang, lớn lên lẻ loi một mình, khó tránh chịu nhiều oan ức. Lục Ninh Hải có thể xem như sứ giả phía Malaysia gửi đến, vậy mà cậu chưa bao giờ nhắc nửa chữ về khó khăn vất vả của mình, chỉ bàn về thư pháp và hội họa, biết chiều theo sở thích người khác, biết lúc nào nên nói nên dừng. Cậu ta cư xử không chê vào đâu được, lại không hề tạo cảm giác xu nịnh. Hai người nói chuyện rất vui vẻ. Trước khi Lục Ninh Hải ra về, bởi trước đó có bàn về việc đất này làm ra được loại mực rất tốt, người trẻ tuổi bèn sai già Thôi mang ra một cái nghiên mực cổ, cười nói mình không giỏi thư pháp, thứ này tuy không tốt, nhưng cũng coi như tìm được một chủ nhân xứng đáng.

Lục Ninh Hải biết Phòng Ba nhà họ Phó đã di dân, đã mang hết đồ đạc đáng giá theo, căn nhà tổ về sau phải chịu không biết bao nhiêu trận vơ vét loạn lạc, con lạc đà gầy sắp chết tuy vẫn to hơn con ngựa, nhưng những món đồ quý giá đã còn không nhiều. Với mắt nhìn của cậu thanh niên kia, thứ dám mang ra biếu nhất định không thể là loại “không thật tốt”. Thái độ chủ nhà quá thiết tha, giả như ông có cố cự tuyệt, trong lòng thực sự cũng rất thích, từ chối thì bất kính, đành đồng ý nhận vậy. Từ biệt xong, Lục Ninh Hải ngoái đầu nhìn căn nhà hoang phế chẳng còn ra dáng ra hình, lại cúi xuống giở xem trong đống giấy tờ, phần ký tên có ghi ba chữ: Phó Kính Thù.

Xem thái độ của bà Trịnh, có lẽ không định can dự sâu vào cuộc sống sau này của cậu thiếu niên kia nữa. Lục Ninh Hải không biết mình còn gặp lại Phó Kính Thù, thế hệ thứ tư của nhà họ Phó nữa hay không. Là người ngoài cuộc, ông chỉ nhận ra một điều rất thú vị: Phó Kính Thù là con trai riêng của Phó Truyền Thanh, không hề có quan hệ huyết thống với bà Trịnh, nhưng trong số tất cả con cháu nhà họ Phó mà ông từng tiếp xúc, Phó Kính Thù và bà Trịnh ở mức độ nào đó có nhiều nét tương đồng nhất.

Rời khỏi Phó gia viện, công việc của Lục Ninh Hải vẫn chưa kết thúc. Nhiều năm nay, nhà họ Phó ở Malaysia luôn là một trong các mạnh thường quân lớn nhất của cô nhi viện Thánh Ân. Trên danh nghĩa người đại diện, mang tấm lòng và tiền quyên góp đến cô nhi viện cũng là mục đích chuyến đi này của Lục Ninh Hải.

Nghi lễ tiếp đón của cô nhi viện Thánh Ân nhiệt liệt hơn Phó gia viện rất nhiều. Viện trưởng và các bà sơ nhận được tin tức từ trước, cho đám trẻ xếp hàng chỉnh tề ở hai bên lối vào, sẵn sàng nghên đón. Dưới sự chỉ dẫn của viện trưởng, Lục Ninh Hải đi quả cả một trận địa trẻ con đang vỗ tay như sấm rền, cảm giác gượng gạo ban đầu mau chóng được thay thế bởi sự tự hào. Dù chỉ là người đại diện, không phải nhà hảo tâm, được đối xử như thế này có hơi “cáo mượn oai hùm”, nhưng nhìn từng gương mặt đỏ ửng lên vì lạnh, dáng người bé xíu xiu vây quanh mình, nghĩ đến cuộc sống của chúng sẽ vui vẻ hơn nhờ cuộc thăm viếng của mình, trong lòng Lục Ninh Hải thấy khoan khoái bất tận. Bài thánh ca vang lên, ông thấy mình dường như trở thành Thượng Đế. Ông trộm nghĩ, có lẽ đây là lý do khiến kẻ lắm tiền thường nhiệt tình làm việc thiện, chí ít cũng là một lý trong các lý do. Nhiều người bảo tiền không mua được hạnh phúc, chẳng qua những kẻ đó không biết mua ở đâu mà thôi.

Viện trưởng cô nhi viện là một bà sơ già, bà dùng lời lẽ tán dương hoa mỹ nhất hoan nghênh cuộc thăm viếng của ông. Lục Ninh Hải đặt tờ chi phiếu của nhà họ Phó vào bàn tay nhăn nheo cổ thụ của bà, lần đầu tiên nói lên ý muốn cá nhân của mình.

Cha mẹ Lục Ninh Hải đột ngột cùng qua đời khi ông trưởng thành không lâu, không có anh chị em, sau khi kết hôn hai vợ chồng ông tình cảm rất nồng nàn, nhưng năm năm trước vợ ông mất trong một tai nạn giao thông, chỉ để lại mụn con trai độc nhất. Sau khi tái hôn, ông và người vợ hiện tại lâm vào cảnh hiếm muộn, nhà neo người, nên Lục Ninh Hải rất ngưỡng mộ cảnh đoàn viên náo nhiệt của các gia đình của các gia đình đông đúc. Ông và cợ cố gắng mấy năm liền, nhưng mong muốn có con không được toại nguyện. Bác sỹ chuẩn đoán nguyên nhân phần nhiều do ông. Vài năm gần đây, Lục Ninh Hải tuổi tác dần cao, công việc bận rộn, càng lúc càng lực bất tòng tâm, mong ước có thêm đứa con sợ sẽ tan tành mây khói. Cách đây không lâu, ông nói với vợ, nếu thật sự không sinh được, chi bằng nhận nuôi một đứa, coi như hoàn thành nguyện vọng bấy lâu. Người vợ trẻ mới hơn ba mươi tuổi, ban đầu không chịu, sau vài lần được chồng khuyên nhủ, nghĩ đến việc mình chưa có con, giờ không cần chịu nỗi khổ mang thai chín tháng mười ngày mà vẫn có thêm đứa con, lại có thêm sợi dây ràng buộc ông chồng thành đạt, liền gật đầu đồng ý. Từ đó hai vợ chòng chính thức lên kế hoạch, ngoại trừ nhờ người đi thăm hỏi khắp nơi, cô nhi viện cũng là một trong những sự lựa chọn của Lục Ninh Hải. Mấy đứa trẻ mồ côi đa phần đáng thương, nếu có thể nhận nuôi một đứa, coi như làm được một việc thiện.

Viện trưởng nghe xong, lập tức gật đầu lia lịa, tỏ ý dốc sức giúp đỡ. Bà mang danh sách trẻ mồ côi trong viện ra, thể hiện rằng chỉ cần ông ưng ý, các điều kiện nhận nuôi phù hợp, thì ông có thể đến đón đứa trẻ về nhà bất cứ lúc nào.

Lục Ninh Hải lật qua vài trang liền gấp lại. Đối với ông, trẻ con là phải hoạt bát, chạy nhảy hiếu động, chứ không phải gương mặt khô cứng như khúc gỗ dưới mỗi cái tên trong cuốn danh sách kia. Ông đề nghị được đi dạo quanh viện. Được làm người một nhà, phải nhờ vào duyên phận, hãy để duyên phận dẫn đường cho ông đến với đứa con mình đang tìm kiếm.

Bà viện trưởng vui vẻ đồng ý, vừa hay đến giờ cơm trưa. Theo truyền thống lâu đời, vào ngày giáng sinh hàng năm, cô nhi viện sẽ làm cơm Thánh phân phát cho đám trẻ, con chiên và các nhà hảo tâm. Kinh phí của viện có hạn, nên thực đơn năm nào cũng như nhau, chỉ có cá rán và đậu phụ. Vậy mà đối với đám trẻ, đó đã là cao lương mỹ vị rồi. Gần như tất cả bọn trẻ đều túm tụm quanh điểm phát cơm Thánh trong sân, đợi lấy phần của mình. Đây là một cơ hội lý tưởng cho Lục Ninh Hải.

“Thông thường, chúng tôi luôn khuyên người hảo tâm nhận nuôi đứa trẻ càng nhỏ càng tốt, chúng chưa mấy hiểu chuyện, khá phụ thuộc vào bố mẹ nuôi. Ví dụ như đứa kia… năm nay nó mới hơn năm tuổi”, Viện trưởng trỏ tay về phía một cậu bé cách đó không xa.

Lục Ninh Hải lắc đầu.

“Mấy tháng trước có người đem đến một bé gái mới hơn một tuổi, có điều… môi nó hơi có tật”.Viện trưởng vừa nói vừa thăm dò nét mặt Lục Ninh Hải.

Lục Ninh Hải đích thực muốn một đứa con gái, một thiên thần nhỏ xinh xắn đáng yêu, đó là ước mơ đã lâu của ông. Nhưng cô bé viện trưởng nhắc đến lại bị hở môi, ông bất giác do dự.

“Mới một tuổi thì nhỏ quá, công việc tôi rất bận, vợ không có kinh nghiệm chăm trẻ, sợ không thích hợp lắm.”

Viện trưởng chẳng lẽ không hiểu lời từ chối khéo ấy. Đúng lúc bà định tiếp tục tiến của, đột nhiên cách đó không xa xảy ra một trận ẩu đả ngay giữa đám đông bọn trẻ đến nhận cơm Thánh. Chỉ nghe một đứa bé trai cao giọng gào lên: “… Mày đến đây làm gì?”

Rất nhanh, có hai đứa trẻ lách ra khỏi đám đông, đứa trước đứa sau ba chân bốn cẳng chạy, phía sau lại thêm một cậu nhóc trắng trẻo cao ngồng đuổi đến, thét lên be be: “Nó đất, lén vào đây ăn vụng uống trộm, đừng cho nó chạy.”

Theo sau thằng nhóc cao kều là mấy đứa trẻ lớn, quát tháo ầm ĩ đuổi theo hai đứa kia.

“Lũ khỉ con.” Viện trưởng không tìm được bực mình, quay sang cười giải thích với Lục Ninh Hải, “chuyện này là…”

Lời nói chưa dứt, cậu nhóc cao kều đã gọi thêm mấy đứa đồng bọn chạy ra cửa lớn cô nhi viện, định bao vây đón đầu. Chạy trên là một đứa con gái, thấy cửa lớn bị vây kín, nó như con sóc nhanh nhẹn quay mình chạy ngược về phía đầu kia khoản sân, không quên lôi thằng nhóc nhỏ bé phía sau theo. Bởi chạy quá vội, lại phải ứng phó với đám truy quân binh chân dài lừng lững, con bé lách bên này lại lượn bên kia, suýt tí nữa đâm sầm vào Lục Ninh Hải.

Lục Ninh Hải phải nghiêng mình tránh, mới không bị tông thẳng vào người.

“Quỷ sứ, đúng là quỷ sứ!” Viện trưởng giậm chân nhiếc.

Con bé quay lại liếc nhìn hai ông bà già một cái, trong ánh mắt đầy vẻ thờ ơ, châm chọc. Cậu bé lùn hơn một chút chạy sau lưng nghe viện trưởng mắng liền hoảng hồn, cái túi giấy ôm trong tay rớt xuống đất, mấy con cá rán vàng ươm vãi ra từ mép túi. Con bé kia thấy thế lập tức quay lại, định cúi xuống nhặt, nhưng thằng bé da trắng cao kều, đã dẫn quân nhào tới.

Đúng lúc đó, Lục Ninh Hải mỉm cười cản thằng nhóc lại, ông không dùng nhiều sức, nhưng đủ cho đứa con gái kia một cơ hội thoát thân. Con bé mau lẹ ào đến bức tường bao quanh sân cô nhi viện, dùng thân cây hoa quế mọc đầu tường làm điểm tựa , thoắt cái đã leo lên trên, quay ra mọc toe toét cười nhạo mấy đứa đuổi đến.

“Đồ trộm ranh ! Sao nó dám vào đây xin ăn cơ chứ ?” thằng nhóc bị Lục Ninh Hải giữ lại không cam tâm gạt tay ông ra, lớn tiếng nói: “Ông ngăn cháu làm gì ? Cháu đang bắt trộm kia kìa.”

Thằng nhỏ đồng bọn của đứa con gái thấy bạn mình thuận lợi thoát thân, chẳng thèm chạy nữa, đứng dưới chân tường oang oang cự lời thằng cao kều, “Mày cũng có phải người trong viện tao đâu, trộm, trộm cả thôi !” Nó vận sức xì mũi một cái, giễu ra vẻ mặt kỳ quái.

“Tao mà như nó ? Cả nhà tao là giáo đồ, quyên tiền cho cô nhi viện. Còn nó là cái thá gì ?” Thằng cao kều ngoạc quai hàm, lại quay sang nhìn sơ viện trưởng, như tìm sự đồng tình.

Viện trưởng lắc đầu im lặng.

“Nói đâu xa, đàn ông con trai đuổi bắt một đứa con gái thì còn ra gì.” Lục Ninh Hải cười nói.

Thằng bé rõ ràng không phục, nhưng hiềm nỗi người đàn ông này tuổi tác tương đương bố mẹ mình, sơ viện trưởng thì đứng ngay đó, nó không dám làm liều, đành hậm hực đi khỏi. Mấy đứa nhóc ban nãy chạy theo thằng cầm đầu la lối om sòm cũng bỏ chạy tán loạn.

Lục Ninh Hải nói với viện trưởng: “Tôi tưởng cơm Thánh hôm nay dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là trẻ con ?”

“Thông thường thức ăn của chúng tôi chỉ dành cho trẻ con trong viện và giáo đồ.” Sơ viện trưởng lộ vẻ khó xử, dừng lại một chút rồi nói, “Đứa trẻ vừa nói chuyện cũng họ Phó, là con cháu của…”

“Tôi lại muốn biết tên đứa nhỏ chạy trốn ban nãy hơn ?” Viện trưởng nhắc đến, Lục Ninh Hải liền hiểu ngay đứa con trai cầm đầu đám đuổi bắt ban nãy quá nửa là dòng dõi Phòng Lớn nhà họ Phó, nhưng ông chẳng quan tâm.

“À, đúa bé đó cũng đáng thương, nó tên Tô Quang Chiếu, năm nay mười hai tuổi.” Viện trưởng thấy Lục Ninh Hải có vẻ thích thú, vội vẫy tay gọi cậu nhóc đứng dưới chân tường, “A Chiếu, mau lại đây.”

Mười hai tuổi, Lục Ninh Hải tỏ ý kinh ngạc. Ông tưởng đứa bé còn thò lò mũi xanh kia chỉ tám chín tuổi là cùng. Trẻ sống trong cô nhi viện Thánh Ân đa phần họ tô, nghe nói là để tưởng nhớ đến Đức Cha sáng lập ra cô nhi viện.

Tô Quang Chiếu nghe gọi, có chút lúng túng.

“Mau ra đây, ngốc thế.” Viện trưởng sốt ruột, sợ A Chiếu bỏ mất cơ duyên hiếm có, vội giục.

Lục Ninh Hải lễ phép cắt ngang lòng nhiệt thành của viện trưởng, nói: “Sơ ơi, ý tôi hỏi cô bé vừa trèo tường chạy ra kia.”

“Nó à…” Viện trưởng không giấu được kinh ngạc, “Nhưng nó không phải trẻ trong viện chúng tôi.”



Chương 12: Toàn Thân Lạnh Toát



Sau lễ Giáng sinh vài ngày là đến năm mới, nhưng những lễ lạt này đối với Phương Đăng chẳng có ý nghĩa gì, cùng lắm chỉ có vụ phát thức ăn miễn phí của cô nhi viện Thánh Ân gần đó là hay ho.

Hôm đó A Chiếu bảo con bé đến nhận cơm Thánh, chẳng mấy khi có cơ hội tốt như vậy, thằng bé hớn hở như thể chính mình làm chủ bữa tiệc linh đình không bằng. Phương Đăng dĩ nhiên không bỏ qua. Đáng nhẽ mọi chuyện rất thuận lợi, nó và A Chiếu xếp hàng hai lượt, nhận được đầy một túi cá rán và đậu phụ, cứ tưởng bớt được hai ngày tiền thức ăn, ai ngờ giữa đường lại nhảy ra một tên Phó Chí Thời. Cái thằng đáng gét, vừa trông thấy Phương Đăng, mắt nó sáng lên như mèo thấy mỡ, om sòm tố cáo con bé không đủ tư cách ăn cươm Thánh. Phương Đăng chẳng thích lằng nhằng với Phó Chí Thời, bèn kéo A Chiếu bỏ chạy. Ai ngờ Phó Chí Thời kéo ở đâu ra một đám lâu la đuổi theo, nếu không nhờ người lạ mặt đứng bên tu nữ viện trưởng cản giúp, sợ rằng nó đã bị con rùa khốn kia ột trận nên thân rồi.

Phương Đăng leo tường trốn ra, về đến nhà, nhớ lại vẻ mặt khó ưa của Phó Chí Thời khi đuổi bắt mình, càng nghĩ càng thấy bực. Dĩ nhiên, nó sẽ chẳng thèm rình đánh thằng ranh ấy lần nữa, Phó Thất lại trách nó manh động, rước phiền phức vào người. Nhưng mà không thế, liệu còn cách nào dạy cái con rùa khốn kiếp kia một bài học?

Phương Đăng nhớ lại mấy hôm trước xuống hàng lão Đỗ mua muối, đúng lúc gặp Phó Chí Thời mua quà đi ra. Nó ngoái nhìn theo. Cái thằng, mồm cứ như đít vịt, không ăn mấy cái linh tinh vớ vẩn kia thì nó chết đói không bằng.

Lão đỗ lúc này đang đứng sau tủ kính, tay cầm mấy tờ tiền trông lạ hoắc soi lên soi xuống. Thấy Phương Đăng, lão bèn chìa ra khoe, hỏi nó thấy mấy món “đồ chơi” này liệu có đáng tiền không.

Phương Đăng vốn chẳng muốn phí lời với lão, nhưng nghĩ lại, biết đâu mấy tờ tiền kỳ quái kia có liên quan đến con rùa Phó Chí Thời, bèn liếc nhìn thêm mấy cái. Lão Đỗ tỏ vẻ thần bí bảo rằng, Phó Chí Thời thường xuyên đến tiệm lão mua quà, ăn chịu không ít. Bị lão đòi gắt quá, mới mang hai đồng tiền cố đến gán. Trong lòng Phương Đăng hiểu ra mấy phần, nó cứ tưởng cha mẹ con rùa đó chiều con đến tận giời, ngày nào cũng cúng cho con một mớ tiền để nó ăn linh tinh. Té ra thằng này ăn chịu, lại không dám xin bố mẹ tiền để trả, hai đồng tiền trong tay lão Đỗ chắc do Phó Chí Thời trộm trong nhà mang đến.

Phương Đăng ngấm ngầm ghi nhớ chuyện này, vậy là nó nắm được thóp Phó Chí Thời rồi. Nước sông chẳng phạm nước giếng thì thôi, ngộ nhỡ hôm nào Phó Chí Thời cắn càn, nó có chiêu đâm lại Phó Chí Thời một nhát. Quả nhiên, chẳng yên ổn được mấy hôm, Phó Chí Thời lại bày trò trêu ngươi chọc tiết.

Bắt cướp phải có tang vật, lý lẽ này Phương Đăng hiểu rõ. Bỏ túi cá đậu xuống, Phương Đăng tức tốc đi tìm lão đỗ, hỏi mượn lão hai đồng tiền cổ, dùng xong sẽ trả ngay. Lão Đỗ là chúa keo kiệt, vốn dĩ không chịu, nhưng Phương Đăng cứ cười tươi như hoa, ngọt giọng xin xỏ, lão cầm lòng sao đặng. Hiếm khi mới được con bé xinh xắn nó nịnh nọt, cả người lão cứ gọi là mềm nhũn, đưa hai đồng tiền ra mà lòng lão rạo rực.

Phương Đăng nắm được chứng cứ trong tay, như mở cờ trong bụng. Phó Chí Thời gọi nó là “Đồ trộm ranh”, thế thì bố mẹ con rùa cũng nên biết, ai mới thực sự là “Bàn tay vàng”. Nhằm khiến cho kế hoạch đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời cũng chuẩn bị lời lẽ sao cho thuyết phục được vợ chồng Phó Kính Thuần, Phương Đăng bèn tìm đến Phó Thất, định cùng cậu ta bàn mưu tính kế, tiện mang cá rán sang cho cậu ăn thử. Ai ngờ phản ứng của Phó Thất làm nó cụt cả hứng, hắn gảy gảy mấy đồng tiền xem một chập, sau đó thờ ơ bảo, đây là tiền đồng từ thời cái gì chính phủ Bắc Dương, hiện nay trong thành phố không lưu hành nhiều, Phó Chí Thời chẳng biết tốt xấu, mới đem đi đổi lấy mấy món quà vặt quèn. Phương Đăng không quan tâm lão Đỗ vớ bở hay không, chỉ hỏi Phó Thất hai đồng xu này có phải do cha của con rùa kia cất giấu. Phó Thất cau mày hỏi ngược lại, người như lão đỗ, có miếng mồi đưa đến miệng sao dễ dàng nhả ra trao cho người khác.

Phương Đăng định chối cho qua chuyện, thấy nó né tránh, mặt Phó Thất càng xị ra. Cậu không thích nó dùng ưu thế chẳng có được cái gì từ nó cả. Phương Đăng thấy cậu ta có vẻ không chịu giúp, liền đòi hai đồng xu về, trong lòng nghĩ, đã thế tự mình nghĩ cách lật tẩy Phó Chí Thời cũng chả sao.

Phó Thất chẳng những không ủng hộ, lại còn khuyên nó đừng để bụng những việc làm của Phó Chí Thời. Phương Đăng bị giội ột gáo nước lạnh, bực không kể xiết. Rõ ràng Phó Chí Thời hết lần này đến lần khác khiêu khích trước, tại sao trước mặt Phó Thất, nó muốn mắng nhiếc xả giận lại thành ra xấu xa. Công khai trả thù không được, âm thầm ám toán cũng chẳng xong. Lấy đá chọi lại đá thì bảo thô bỉ, ngấm ngầm bày mưu lại nói không nên. Ừ nó là đứa tiểu nhân thích thù vặt đấy, cái thế giới khốc liệt mạnh được yếu thua này đã dạy nó nguyên tắc ấy, nguyên tắc đơn giản và hiệu quả nhất, để có thể tồn tại. Chỉ có thể làm như thế, mới khiến những kẻ quen thói ỷ mạnh hiếp yếu khiếp sợ. Nó ghét cay ghét đáng cái kiểu trù trừ tính trước ngó sau của cậu ta. Nói trắng ra đó là hèn.

Phương Đăng giậm chân bình bịch, hậm hực nói với Phó Thất: anh cũng là họ Phó cả thôi. Phó Thất chỉ lạnh lùng nói, em đừng tưởng mình bao giờ cũng đúng. Kể cả em có đích thân đánh Phó Chí Thời, hay bày mưu khiến nó bị cha mẹ đánh đi nữa, ngoại trừ ngay lúc đó em thấy hả giận, kỳ thực chẳng giải quyết được điều gì. Nắm đấm và mưu hèn kế bẩn không thể thuần phục của con người. Cách báo thù tốt nhất là đừng vội manh động, phải biết nhẫn nại chờ thời, khi sức lực em vượt xa kẻ thù, nó sẽ phải ngoan ngoãn quỳ xuống liếm chân cho em.

Phương Đăng không thèm tiếp thu, nó cảm thấy toàn là viện cớ. Hai đứa nói qua nói lại một lúc giận dỗi giải tán, Phương Đăng cầm đồng xu về, buồn bực không yên. Hôm sau nó đem trả tiền xu cho lão Đỗ. Mất hai ngày liền, nó chẳng để ý đến Phó Thất, Phó Thất cũng không đến tìm nó.

Chẳng mấy chốc kỳ nghỉ tết tây đã tới. Chập tối đêm Giao thừa, Phương Đăng nhặt viên đá vụn chọi vào cửa sổ Bách Diệp, định gọi Phó Thất đi ra giáo đường chơi. Nó biết hôm nay già Thôi vào thành phố mua đồ, chắc phải tối hẳn mới về đến nhà, có một mình, chẳng biết Phó Thất đã ăn cơm chưa.

Viên đá nhỏ đập vào cửa sổ Bách Diệp phát ra tiếng va đập khe khẽ. Trước đây mỗi lần như vậy, cậu ta sẽ bực mình mở cửa bảo nó cứ đứng đấy đợi đi, nhưng rồi chỉ chốc lát đã xuống nhà gặp nó. Vậy mà mấy hôm nay, Phương Đăng ném hết mấy viên sỏi trong tay, mà cửa sổ Bách Diệp vẫn im lìm.

Phương Đăng bắt đầu thấy là lạ, cái tên Phó Thất này vốn sợ lạnh, đông đến chỉ thích rúc trong nhà. Đảo hôm nay gặp trận đại hàn, chẳng lý do gì cậu ta lại lang thang bên ngoài. Nó chợt để ý, chậu hoa chuối tây trước ban công chẳng hiểu sao không thấy đâu, hay là hắn giận nó thật rồi?

Nó lại gân cổ về phía cửa sổ gọi tên cậu thêm vài lần, không thấy ai trả lời, đành ỉu xìu quay về. Ngẫm đi nghĩ lại, nó vẫn thấy kỳ lạ: Phó Thất không phải người ưa chuyện, nhưng cũng tuyệt đối không phải kẻ nhỏ nhen, dẫu có muốn làm mình làm mẩy, không đồng tình những lời nó nói, những việc nó làm, cũng không đến mức như thế. Bây giờ nó chủ động đến tìm, chẳng lý do gì cậu cố ý làm ngơ, có giận mấy cũng sẽ không vứt cây chuối tây đi đâu!

Tối hẳn, A Chiếu đến giục Phương Đăng xuất hành, muộn thêm chút nữa, trong giáo đường chật ních người, không cách nào lên vào được. Phương Đăng thật sự không còn hứng thú chơi bời, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi suông ở nhà mà nghĩ cho nát óc. Xuống gác, nó gặp ngay già Thôi tay xách nách mang trở về, vội bảo già Thôi vào xem Phó Thất bị làm sao không.

Già Thôi không hiểu chuyện gì, nói ban sáng trước khi ra khỏi cửa, Tiểu Thất có dặn tối nay không cần nấu cơm, vì có thể sẽ cùng Phương Đăng đến giáo đường xem dàn đồng ca biểu diễn, tiện thể ghé đâu đó ăn hoành thánh. Phương Đăng càng thấy có điều bất ổn, theo lời già Thôi, Phó Thất vốn dĩ không giận nó, mời nó ăn hoành thánh lại là hành động cậu ta thường làm khi muốn dỗ ngọt. Con bé giục già Thôi mau chóng mở cửa, tự mình theo vào, chỉ sợ cậu ta lại đổ bệnh. Tới bên dưới khung cửa sổ, bỗng một chậu hoa vỡ nát xuất hiện trong tầm mắt.

Chẳng phải gì lạ, chính là chậu hoa chuối tây vẫn đặt trước cửa sổ phòng Phó Thất. Lúc này cái chậu bị vỡ làm bốn năm mảnh, đất bên trong rơi ra tung tóe. Chắc bị ai đó ném từ tầng hai xuống mới tan tành đến vậy. Đang lúc Phương Đăng vừa kinh ngạc vừa hoài nghi, già Thôi xăm xăm chạy xuống lầu, nói không thấy Tiểu Thất đâu, lạ là chìa khóa cậu không mang theo, đến áo khoác cũng không thèm mặc.

“Hay là Thất ca ra ngoài chơi một mình?” A Chiếu và Phương Đăng lúc này đứng đối diện nhau.

Phương Đăng lắc đầu. Chưa nói Phó Thất không phải người ham chơi, nếu có việc gì ra ngoài, cậu ấy cũng không vội vã đến thế. Mà chậu hoa chuối tây bị rơi thật là kỳ quặc.

Già Thôi không kìm được, vừa xoa tay vừa nói: “Đứa trẻ này rốt cuộc đã đi đâu? Chẳng nói chẳng rằng… Phương Đăng, cậu chủ không đến tìm cháu thật à?”

“Nếu cậu ta đến tìm cháu, cháu còn đứng đây làm gì?”

“Không xong rồi, phải đi tìm xem sao”, già Thôi nói xong đi ngay.

“Cháu cũng đi”, A Chiếu chạy theo.

Đảo Qua Âm bé bằng hạt tiêu, hai người chia nhau đi tìm đã là đủ. Phương Đăng lo biết đâu Phó Thất chỉ ra ngoài đạo, một lúc nữa sẽ về, liền trở lại căn gác xép của mình, ngồi bên cửa sổ chờ đợi, chỉ cần thấy cậu ló dạng nơi đầu ngõ, nó sẽ trông thấy liền.

Ông Phương Học Nông lại đi đâu không rõ. Gần đây ông thường đàn đúm ở bên ngoài, chưa khuya hẳn hiếm khi có mặt ở nhà. Phương Đăng có khi buột miệng hỏi cha đi đâu, ông chỉ đáp không cần mày lo. Mấy con cá rán lẫn đậu phụ Phương Đăng nhận hôm Giáng Sinh để phần cho cha vẫn còn nguyên xi. Nếu là trước kia, ông đã mang ra vừa ngấu nghiến vừa tợp rượu như ma đói đầu thai. Đang lúc nóng ruột, Phương Đăng chẳng còn tâm trí đâu nghĩ xem con ma men nhà mình đã đi đâu, vứt bừa chỗ cá và đậu phụ sắp hỏng vào thùng rác.

Phó Kính Thù không xuất hiện trước mắt Phương Đăng như nó mong đợi, mà lại là già Thôi và A Chiếu người trước người sau trở về Phó gia viện. Phương Đăng chạy xuống, quả nhiên, họ đi khắp những nơi Phó Thất có thể đến, mà không thấy bóng dáng cậu ta đâu.

“Chắc không xảy ra chuyện gì thật chứ?” Phương Đăng lòng nóng như lửa đốt.

“Chẳng có nhẽ, giữa thanh thiên bạch nhật… Ta mới rời đảo một ngày, ban sáng cậu chủ vẫn bình thường mà.” Già Thôi ngoài miệng nói thế, nhưng sắc mặt dần trắng bệch, do dự nói: “Hay là đến sở cảnh sát một chuyến?”

“Phải mất tích bốn mươi tám tiếng cảnh sát mới thụ lý vụ án ông ơi.”

A Chiếu, cái đồ con nít quỷ.

“Thất ca thông minh như thế, làm sao xảy ra chuyện được ? Chắc là anh ý chán quá, ra ngoài dạo mát thôi. Ơ, chị đi đâu đấy ?”

A Chiếu ngơ ngác nhìn theo bóng Phương Đăng đi khỏi.

Phương Đăng không hiểu sao cảm thấy không thể đứng đó chờ thêm một nữa, nó chỉ muốn tìm một nơi bình tĩnh suy nghĩ lại. Có một dự cảm không lành đang đeo bám nó. Chuyện này mới phát hiện tức thì, sở cảnh sát sẽ không can thiệp. A Chiếu và gìa Thôi vẫn nuôi hy vọng Phó Kính Thù ra ngoài vì việc gì đó, sẽ mau chóng quay về. Nhưng nó lờ mờ nhận thấy không phải, một kẻ thận trọng quy củ như cậu ta, cái lần bị cảm vì dầm mưa trốn trong nhà không chịu gặp ai đã là hành động nổi loạn nhất có thể rồi. Trực giác mách bảo nó rằng, chậu hoa chuối tây rơi vỡ ở dưới hiên là ám hiệu Phó Thất để lại. Đột nhiên cậu ta mất tích, nhất định không phải đơn giản.

Cả tối Phó Kính Thù vẫn chưa về, Phương Đăng trằn trọc mãi không ngủ được. Quá nửa đêm, ông Phương Học Nông mở cửa bước vào, ư ử nhân nga hát. Gần đây lần nào về nhà trông lão cũng ngất ngưởng, cơm no rượu say.

Phương Đăng vén tấm màn ngăn lên, ngồi dậy hỏi : “Bố đi đâu giờ này mới về ?”

“Có người mời ông mày ăn cơm.” Ông Phương Học Nông đáp ngay tắp lự.

Ai lại mời cha ăn cơm ? Mà còn liên tiếp mấy ngày. Phương Đăng không tin ông có mối quan hệ nào như thế. Lúc này nó mới để ý, bình rượu còn phân nửa bố nó tiện tay quẳng lên bàn trông khác hẳn trước đây, không còn là loại rượu rẻ tiền được lão đỗ mua theo lố rồi chia ra bán lẻ nữa. Rượu này giá bao nhiêu một bình nó không rõ, nhưng chắc chắn không phải thứ con ma men kia mua nổi.

“Ai mà hào phóng thế ạ ?”

Lão Phương Học Nông có chút mất kiên nhẫn, “Mấy anh em công nhân mời tao đi uống rượu không được à ?”

Nhằm phát triển dịch vụ du lịch trên đảo, gần đây người ta cho xây một quán rượu khá lớn. Làm trong công trường đa phần là người nơi khác đến, sao ông đánh bạn nhanh thế ? Phương Đăng chợt nhớ ra, hai ngày trước, nó bỗng thấy Thôi Mẫn Hành xuất hiện trên đảo, đi cùng với ông Phương Học Nông. Lúc ấy Phương Đăng thấy lợm giọng, chỉ nghĩ hai người này là cá mè một lứa, đi với nhau mùi tanh hôi hóa ra lại hòa hợp, là chuyện thường tình thôi. Có thể nó nghĩ nhiều, có thể chuyện Phó Thất mất tích làm tinh thần nó bất ổn chăng… ? Phương Đăng cảm giác dường như có gì đó bất ổn, mà nhất thời không nói ra được.

Phương Học Nông thấy mắt con gái trợn trừng trừng, tưởng nó vẫn soi mói bình rượu của mình, tỏ vẻ đắc ý nói : “Mày có biết rượu này bao nhiêu tiền một bình không ? Sợ nói ra mày sẽ chết khiếp đấy con ạ.”

Trái tim Phương Đăng quả thực đang đập dồn không ngừng, nhưng chẳng phải vì bình rượu của cha. Nó dần sáng tỏ nỗi bất an trong lòng đến từ đâu. Thôi Mẫn Hành đột nhiên xuất hiện trên đảo, lại đi cùng với người cha vô sỉ vốn ghét cay ghét đắng nhà họ Phó của nó, bỗng đâu lại có người mang thịt rượu ngon lành đến chăm sóc lão… Chuyện này liệu có liên quan đến Phó Thất ? Chẳng lẽ trùng hợp đến thế ? Phương Đăng càng nghĩ càng thấy lạ lùng, câu chuyện này đâu đâu cũng có điểm đáng nghi. Một giả thuyết đen tối đằng sau sự trùng hợp kia khiến nó không dám nghĩ thêm.

“Thôi Mẫn Hành mua rượu cho bố à ?”, nó thử thăm dò.

Lão Phương Học Nông đang cởi áo ngoài, bỗng nhiên chậm tay lai. Đèn đã tắt, nhưng lão vẫn cảm nhận được con gái mình lặng thinh ngồi đó, ánh mắt lạnh lùng dõi theo mình. Lão cảnh giác hơn, đồng thời cảm thấy gượng gạo.

“Con nít con nôi biết nhiều để làm gì ?” Một lát, lão nói thêm, ”Sao tự nhiên mày lại nhắc đến người đó ?”

Tuy không thừa nhận, nhưng phản ứng của cha khiến Phương Đăng càng thêm nghi hoặc. Nó lại sợ cha đề phòng, liền đổi giọng lấp liếm cho qua.

“Tiện miệng thì con hỏi, cũng chỉ thấy mỗi anh ta từng mời cha uống rượu.” Nó lại giả vờ nói bằng giọng mỉa mai như thường ngày, “Nhưng nghĩ lại cũng vô lý. Tiền bố không có, bản lĩnh cũng không, ai người ta dư hơi thiết rượu bố cả ngày. Hay bố lại đi lừa được ở đâu về ?”

Ông Phương Học Nông quả nhiên không nén được giận. Lão ghét nhất con gái dùng giọng điệu như thế đáp trả mình. Ở ngoài người khác xem thường lão thì được, nhưng về nhà thì không.

“Mày thì biết cái gì, đồ thối thây, cứ coi thường bố mày đi, sớm muộn tao cho chúng mày biết tao ‘ra trò’ hơn chúng mày tưởng nhiều đấy.”

“Bố ‘ra trò’ thế nào nào, nói con biết với ?”, Phương Đăng thôi cười.

Ông Phương Học Nông không đáp, tùy tiện quăng mấy tờ giấy bạc sang giường nó : “Việc của ông đây mày đừng nhúng tay vào, đấy, tiền mua thức ăn tuần này đấy.”

Phương Đăng sán lại xem, nhiều hơn thường ngày một chút. Cha nó lại nghĩ ra điều gì, thọc tay vào túi lôi ra mười đồng bạc, “Còn cái này cầm lấy mà mua sách bút gì gì thì mua.”

Bỗng dưng lão cho nó tiền tiêu vặt, đây là chuyện hiếm có. Phương Đăng nặn ra một nụ cười, ngạc nhiên đón lấy tiền rồi hỏi : “Dạo này bố đi đâu nhặt được tiền, hay là đánh bạc được tiền thế ?”

Lão Phương Học Nông ngã ra giường, cứ như nhắm mắt lại là chực ngủ ngay được. Lão rủ rỉ đáp một câu, “Mày cứ đợi đi, đừng tưởng bố đây vô dụng cả đời.’’

Phương Đăng lặng lẽ cất tiền xuống dưới gối. Tiếng kéo bễ của Phương Học Nông chẳng mấy chốc đã vang lên. Nó cảm thấy bất an, cứ trở mình liên tục, như thể dưới gối có một đống lửa đang cháy rực.

Ông Phương Học Nông đánh một giấc đến tận giữa trưa ngày hôm sau, được dịp Phương Đăng bèn lẻn ra ngoài, mới biết Phó Kính Thù vẫn chưa có tin tức gì, già Thôi tiếp tục đi tìm kiếm khắp nơi. Khi Phương Đăng trở về căn gác nhỏ của mình, lão Phương Học Nông đang đứng bên cửa sổ, vừa ngáp ngắn ngáp dài vừa mặc quần áo, không ngừng ngó về phía đối diện. Thấy con gái bước vào, lão bèn quay đi chỗ khác nói : “Chốc nữa tao phải ra ngoài, ông già nhà họ Đổng nghẻo rồi, tao đến giúp việc tang, tối nay không về đâu.”

Phương Đăng thờ ơ gật gật đầu.

“Mày gục gặc đầu cái gì, cứ ỉu xìu như bún thiu.” Phương Học Nông đặt tay lên cửa, quay lại liếc con gái một cái. Thường ngày hiếm khi lão để ý con gái vui hay không, hoặc trong lòng đang nghĩ gì.

Phương Đăng buồn bã trả lời : “Cái tên Phó Kính Thù kia một ngày một đêm không thấy mặt mũi đâu cả, chẳng biết chạy đâu rồi ?”

Phương Học Nông quay đi, lầu bầu đáp : “Tao đã bảo mày cẩn thận đừng để nó lừa, lũ con hoang vô gốc vô gác, biết đâu một ngày nó trở mặt không nhận ai, tự mình cao chạy xa bay, giống như thằng bố vong ân phụ nghĩa của nó ấy.”

Phương Đăng lắng nghe tiếng bước chân của cha xuống nhà, đợi đến khi ông đi xa, nó mau lẹ xông lên giường lão, kéo mạnh cái chăn ra, thò tay dò dẫm dưới gối và trên tấm khăn trải giường. Cuối cùng, nó tìm thấy một vật được bọc bằng giấy dầu trong lỗ thủng trên bức tường phía sau gối. Lỗ thủng này chỉ to bằng nửa viên gạch, phủ sau lớp giấy báo y như những phần tường khác, lại ẩn phía sau gối, nếu không nhờ Phương Đăng dò kỹ từng tấc một, lại phát hiện ra chỗ này có vết hồ mới, e rằng khó mà phát hiện ra.

Lúc đang tìm nó cứ như điên lên, nhưng đến khi cầm trong tay bao giấy nó lại do dự, thở ra một hơi dài mới dám mở ra, lòng gợn nỗi lo, cứ như đang mở chiếc hộp Pandora huyền thoại.

Thứ trong bao giấy hóa ra bình thường vô cùng. Ngoại trừ mấy trăm đồng bạc, có thêm một chiếc lược cũ, giống cây lược trước đây cô Chu Nhan hay dùng, bên trên còn dính vài sợi tóc. MẶt dưới lược là một tấm gương nhỏ nhắn tinh xảo. Phương Đăng run rẩy gấp nó lại. Vật này quá đỗi quen thuộc, có người từng hứa sẽ luôn mang theo bên mình dùm nó. Không cần phí công tốn sức, nó cũng có thể độc trôi chảy hai hàng chữ khắc sau gương : “Quyết không rời xa, thật lòng thật dạ.”

Phương Đăng thấy trước mắt tối sầm, ngã ngồi xuống mép giường. Chiếc giường trúc cũ kĩ phát ra một âm thanh kẽo kẹt kỳ quái, cứ như tiếng rên, gấp gáp chói tai. Nó dùng tay ôm chặt khuôn mặt, giữa bóng tối đang bao vây, toàn thân nó lạnh toát.



Chương 13: Bóng Tối Và Ánh Sáng



Phương Học Nông dạo một vòng, đoạn xách theo nửa bình rượu ngon chưa nỡ uống đến một quán cơm nhỏ trên đảo, đánh một bữa no nê bước ra, rồi nghênh ngang cái đầu phà khói thuốc lá. Lão chẳng đi đến đám tang nhà họ Đổng nào cả, mà cứ men theo bãi biển rìa hòn đảo đi về phía Đông.

Mé Tây đảo Qua Âm địa thế bằng phẳng, mật độ dân số dày hơn, các loại nhà ở và kiến trúc thương nghiệp cũng tập trung tại đây. Phía Đông bị bãi biển và mấy sườn dốc chiếm đa số diện tích, trước đây từng có một cảng nhỏ chuyên lưu chuyển hàng hóa, do bến tàu được xây dựng, nên khoảng mười năm nay cảng này nửa như đã hoang phế. Phương Đăng không thông thuộc địa thế nơi này bằng cha, lại thêm đường sá quanh co nhỏ hẹp và những bóng cây xanh rậm rạp khuất lấp, nó không dám theo quá sát.

Vào mùa đông trời tối sớm, nếu gặp thời tiết mưa nhỏ âm u, hòn đảo nhỏ rất nhanh bị cảnh chiều hôm xây xẩm bao trùm. Phương Đăng có lúc nghi ngờ mình đi lạc, phía trước chẳng thấy bóng dáng cha đâu nữa. Qua khỏi công trường xây dựng quán rượu mới, người đi lại thưa dần, đừng nói là dân đảo, ngay cả khách du lịch hiếu kì cũng hiếm khi dạo bước tới tận đây.

Trên triền dốc rải rác mấy tòa kiến trúc đổ nát, phần lớn là nhà gỗ dựng tạm của dân ngoại lai. Rất lâu về trước, khi hòn đảo được quy hoạch lại, các hộ gia đình này phải dọn đi nơi khác, nhưng các khu nhà không được dỡ bỏ, giờ đây chúng thấp thoáng ẩn hiện qua các lùm cây lưng chừng dốc như những bóng ma. A Chiếu từng nói, phía đông đảo có nhà xác của một bệnh viện cổ, lại có một trường tập bắn súng, mỗi khi chiến tranh nổ ra hoặc các sự kiện khác, trên đảo lỡ có người chết bất đắc kỳ tử, sẽ được chôn ngay cạnh trường bắn này. Chẳng biết A Chiếu nghe được từ đâu ra, trước đây Phương Đăng chỉ nửa tin nửa ngờ, thế nhưng… Cơn gió biển thấu buốt hòa lẫn trong trận mưa lạnh rả rích ngấm qua vầng trán nó, gặm nhấm từng ngóc ngách ấm áp sót lại trong cơ thể. Các lùm cây ven dốc vang lên những tiếng kêu gào thảm thiết. Tất cả làm Phương Đăng dần tin lời A Chiếu là thật. Nhưng nó không thể quay lại. Nơi đây không phải nơi người bình thường nên đến, nhưng lại nắm giữ bí mật mà nó muốn khai phá.

Phương Đăng men theo con đường nhỏ lát đá bị che lấp quá nửa bởi cỏ dại, tiến vào nơi sâu nhất của con dốc. Không bao lâu, trước mắt nó hiện ra một tòa nhà nhỏ ba tầng, cửa vào lẫn cửa sổ đều rách nát, dưới màu sắc tranh tối tranh sáng lúc này trông như một con quái thú có vô số cái miệng ngoác ra. Nơi vốn là cửa chính treo một tấm biển xiêu xiêu vẹo vẹo, nó nheo mắt nhìn kỹ, dường như là mấy chữ “Trạm y tế đảo Qua Âm” màu đen, xem ra đây chính là bệnh viện cổ mà A Chiếu nhắc đến. Trong khóm cỏ bên đường có một mẩu thuốc lá hút dở, Phương Đăng nhặt lên, chính là loại thuốc tự làm cha nó thường hút. Ít nhất thì nó không đi lạc. Đáng lẽ phải thở phào nhẹ nhõm, nhưng thực tế, tim nó đập càng nhanh hơn. Đúng lúc đó, có tiếng người loáng thoáng vọng lại.

Tiếng nói chuyện thấp thoáng lúc gần lúc xa theo cơn gió. Nó dừng lại lắng tai nghe kĩ một lúc lâu, dường như âm thanh phát ra từ phía sau trạm y tế. Nghe kĩ hơn một chút, láng máng như là tiếng vài người đàn ông đang thì thầm bàn chuyện, trong đó có một giọng nói nó thấy rất quen. Tiếc rằng không thể nào nghe rõ họ đang nói gì.

Phương Đăng không dám liều xông vào, cũng không muốn bỏ cuộc ở đây, đành cúi người nấp trong đám cỏ lúc rậm rạp ven đường. Tiếng xì xầm kéo dài thêm một lúc thì dừng, không bao lâu lại vang lên, lần này rõ ràng có người tỏ ra tức giận, cuộc nói chuyện trở thành trận tranh cãi nhưng kiềm chế ở một mức nhất định. Nó cuộn mình trong đám cỏ vừa ướt vừa lạnh, trời đã tối sụp, đèn đuốc mé tây đảo sáng trưng, cứ như một thế giới khác. Đỉnh dốc và bầu trời nặng trĩu dường như nối liền một dải, nó cảm giác cơ thể lẫn bùn lầy trong đám cỏ hoang bị đông cứng thành một khối.

Cuộc tranh cãi ngày một dữ dội, có người dận dữ đập vỡ thứ gì đó. Phương Đăng chưa kịp quyết định bản thân có nên lại gần thêm tí nữa để nghe cho rõ cuộc đối thoại hay không, thì những tiếng nói kia bỗng tiến lại gần, kèm theo bước chân nặng nề. Đám người lạ có vẻ như đang đi về phía nó.

Phương Đăng hoảng hồn, vội vàng chạy vào trong trạm y tế, núp mình tại một góc tường xa cửa sổ, ngay trước khi đám người kia lộ mặt. Nó không chắc đối phương có nghe thấy tiếng đọng phát ra khi nó tìm chỗ núp hay không, tim đập như muốn vọt ra khỏi lồng ngực, không dám thở mạnh, càng không dám cử động đôi chân tê rần bởi phải ngồi một tư thế quá lâu.

Tiếng bước chân càng lúc càng gần, đám người kia đã ra phía trước tòa nhà.

“… Tao đã bảo không thể tin lời thằng bỏ đi ấy được mà, cứ tưởng khoắng được một mẻ, ai dè làm ăn lỗ vốn kiểu này, đen con nhà bà đủi, hừ!” Có người khạc ra một bãi đờm ra đất.

Một giọng nói hơi khàn tiếp lời: “Biết thế chó nào được, lúc đầu nó ba hoa chích chòe ai chả sướng, nào thì là thằng ranh con này béo lắm… Bố mày cứ tưởng nó thật thà, nghĩ mà xem, thằng ranh sống ở…”

May ra đám người lạ mải cáu gắt, không để ý có người đang núp cách đó chỉ vài bước chân. Tiếng nói và bước chân của họ xa dần, có lẽ men theo con đường Phương Đăng đi lúc nãy để trở ra.

Từ những gì nghe được, Phương Đăng đoán hai người ban nãy đi qua là đàn ông trung niên, khẩu âm nghe rất lạ tai, chắc chắn là từ ngoài đảo tới. Người nó muốn tìm không có trong đó. Nó ngồi co quắp trong góc tối thêm chừng mười phút, khi chắc chắn hai người nọ đã đi xa, không có vẻ gì sẽ quay trở lại, mới dám cử động thử tay chân. Tay chân nó tê đến nỗi như không còn thuộc về cơ thể. Nó chầm chậm đứng lên.

Lúc này Phương Đăng mới cảm nhận thấy bên trong tòa kiến trúc hoang tàn này tối và lạnh hơn khóm cỏ hoang ngoài kia rất nhiều. Không khí ở đây dậy mùi ẩm mốc lâu năm. Bốn bề bỗng trở nên yên lặng như tờ, đến những tiếng rả rích của côn trùng cũng biến mất. Nó bị cảm giác sợ hãi tột độ bóp nghẹt. Dù thế, con bé không thể chờ đợi thêm, bởi trong một góc tối tăm cách đó không xa, có một thứ khiến nó đau đớn lấn át nỗi khiếp sợ.

Phía sau trạm y tế cũ hơn
ĐẾN TRANG
Thông Tin
Lượt Xem : 7574
Tác Giả : Sưa Tầm
GỬI BÌNH LUẬN