Ngoảnh lại hóa tro tàn
hẵng còn sạch sẽ. Trước khi thầy giáo gọi về, nó đã kịp hốt đầy nửa túi bùn khơi lên từ chỗ sạch nhất trên hồ, độ ẩm lỏng vừa phải, chắc chắn sẽ tiện cho cậu ấy dùng.
Tiết học kết thúc đúng lúc tan học, dụng cụ làm việc của học sinh đều mang từ nhà đến, thầy giáo điểm danh một lượt rồi cho học sinh ra về. Phương Đăng một tay xách giỏ đựng rác nhà mình, một tay nâng chiếc túi đầy hơn một nửa bùn đất như nâng báu vật, cứ thế đi về. Túi bùn trông không nhiều nhưng khá nặng, thời tiết lại quá nóng bức, áng chừng phải tiêu hao sức lực không nhỏ, nửa đường nó dừng lại nghỉ ngơi một lát.
Chỗ nghỉ chân cách cổng chính trường học không xa, một tay Phương Đăng quạt lấy quạt để, quay lại liền thấy một bóng người thân quen đi về phía mình. Ban đầu nó cứ tưởng cậu ta sẽ như mọi lần, đi qua nó như không quen biết, nào ngờ Phó Kính Thù nhìn thấy cái sọt rác và túi phân bón dưới chân nó, cảm thấy tò mò liền chậm bước, nhìn nhìn mấy cái.
Chẳng mấy khi được người ta chú ý, Phương Đăng mừng như mở cờ trong bụng, giơ túi bùn ra trước mặt Phó Kính Thù, “Cho anh đấy, cái này tốt lắm, dùng để…”
Cậu ta không đón lấy ngay.
“Cái gì mà quý thế?”
Người vừa lên tiếng không phải Phó Kính Thù. Phương Đăng bực mình quay nhìn, hóa ra là một cậu nhóc trạc tuổi cô, trắng nõn trắng nà, trên mặt rõ ràng một nụ cười giễu cợt.
“Hôm nay được tặng cái này, ngày sau lại được biếu cái khác. Chẳng trách bố mẹ tao bảo bây giờ người trong Phó gia viện chẳng khác ăn mày bao nhiêu.”
Cậu nhóc nọ không đợi Phó Kính Thù và Phương Đăng đáp, sán lại gần muốn xem trong túi rốt cuộc là của quý gì, vừa ló mặt vào tức khắc lui lại hai bước, bịt mũi ré lên: “Chơi nhau à, thối ghê cả người!”
“Có phải ày đâu, thơm hay thối liên quan gì đến mày?” Phương Đăng không biết cậu ta là ai, đơn thuần chỉ thấy ghét cái giọng lưỡi ngạo mạn của cậu ta với Phó Kính Thù.
Cậu nhóc kia giờ mới liếc nhìn Phương Đăng, ngây ra một lúc, hỏi: “Mày học lớp nào?”
Mấy đứa học sinh từ phía sau ùn ùn kéo đến, vài cô bé xúm lại trộm cười, có đứa cướp lời Phương Đăng nói: “Cậu không biết nó là ai à? Thế chắc biết lão phương huyết nùng chứ, lão nát rượu hay khênh áo quan, rắc tiền vàng chính là bố nó đấy.”
“Nghe nói bố nó đầu óc dở dở ương ương, nó cũng chẳng bình thường, khuân một đống đen xì xì thối hoắc về mà dám đem tặng người ta.”
“Người ta chẳng thèm để ý đến mình thì thôi, còn mặt dày mày dạn lẽo đẽo đi theo…”
Phương Đăng liếc Phó Kính Thù, cậu tỏ vẻ lạnh nhạt, chẳng nói chẳng rằng.
Phương Đăng cắn môi, từng thớ thịt trong cơ thể căng ra nhức nhối.
Cậu ấy dĩ nhiên không giống nó. Nhưng nó luôn tin rằng những điều quá khác biệt lại tồn tại được bên nhau, mới thật là điều kì diệu của cuộc sống. Giống như đứng bên vũng bùn lầy, ta vẫn ngửi thấy hương hoa thơm ngát như ở giữa tầng mây. Có ai ngờ trong mắt kẻ khác, ấy lại là chỗ đáng đem ra ngạo báng. Hoa trong mây mà lại mọc từ vũng bùn hôi tanh hay sao? Phương Đăng chẳng cần ai đứng ra thức tỉnh, rằng mình là con gái phương huyết nùng, kẻ bị mọi người dè bỉu, mọi thứ thuộc về nó đều dơ dáy tanh tưởi; còn Phó Kính Thù, cái hay cái đẹp của cậu ta, không chỉ Phương Đăng, ai cũng nhìn ra. Mây bùn khác lối, những nhiệt thành và ước ao của con bé càng trở nên buồn cười thê thảm.
“Mày xem nó vác cả bao bùn thế kia định làm gì…”
“Cút!” Phương Đăng đột nhiên quát lớn khiến tất thảy đám đông giật mình. Nó cắn răng cười nhạt: “Chúng mày đừng quên, đầu óc tao có vấn đề đấy!”
Au cũng ghét kẻ điên, nhưng chẳng ai muốn đụng độ với kẻ điên cả. Quả nhiên những tiếng rì rầm xung quanh lắng xuống, vài ba đứa cau mặt lẳng lặng bỏ đi.
Thằng nhóc hiếu chiến kia vẫn chưa chịu rời, nhếch môi cười nói: “tao lại thấy chúng mày hoàn toàn bình thường. Dù gì cũng là người một nhà. Gái rượu của huyết nùng với quý tử ngoài giá thú của em gái huyết nùng, chuột cùng một tổ cả!”
“Mày có ngon nói lại tao nghe!” Giọng Phương Đăng bình tĩnh hơn nhiều.
“Tao nói sai à, toàn chuột cùng một…”
Phương Đăng vừa cử động, Phó Kính Thù như chớp chộp lấy cổ tay nó.
“Đủ rồi.” cậu vừa như khuyên Phương Đăng, vừa như nói với cậu nhóc kia. Phương Đăng chẳng thể nhìn ra chút cảm xúc tức giận nào từ cậu ta. Cho dù đổi lại người bị trêu chọc , công kích nãy giờ là mình, có lẽ cậu ấy vẫn giữ thái độ xa cách, an nhiên như thế. Phương Đăng giật mạnh tay ra, trước khi thằng kia kịp ngậm miệng lại, nó đã bốc lấy một nắm bùn, lanh lẹ trét đầy cái miệng huênh hoang đáng ghét.
Thằng nhóc đờ đẫn, thời gian như ngưng tụ trong vài giây. Nó lập tức lấy mu bàn tay chùi bùn ở khóe miệng, bất thình lình khom lưng nôn ọe ầm ĩ.
Cảnh tượng phía sau trở nên hỗn loạn, thằng nhóc nôn đến độ không biết trời đất là gì, khóc xém chút tắc thở. Người đến xem càng lúc càng nhiều, có cả người lớn. Phương Đăng mau chóng bị tóm lấy, thầy cô trong trường và bố mẹ thằng nhóc lần lượt có mặt.
Cha mẹ của thằng nhóc này trông không quá danh giá. Đến nơi, thấy thảm hại của con trai mình như thế, họ đau xót khôn nguôi. Ông bố hỏi thăm qua loa đầu đuôi câu chuyện từ người qua đường, bà mẹ to béo vằn mắt xông vào Phương Đăng, giơ tay đánh một bạt tai. Thấy cánh tay bà sắp tới mặt mình, nhưng bị giữ không chạy đi đâu được, Phương Đăng chỉ đành nhắm mắt, chờ cái đau bỏng rát và nỗi nhục nhã ê chề giáng xuống.
Phó Kính Thù giữ tay người đàn bà lại, bình tĩnh gọi một tiếng: “Chị dâu.”
Trên mặt người phụ nữ tuổi cận tứ tuần thoáng chút bối rối, phẫn hận, chán ghét lẫn trù trừ, đấu tranh một hồi, cuối cùng đánh hậm hực thu cánh tay về.
Sau ấy cả bọn Phương Đăng đều bị áp giải về trường. Thầy giáo dắt riêng con bé vòa một văn phòng nhỏ, nghiêm khắc trách mắng một hồi, đồi gặp phụ huynh. Phương Đăng chẳng sợ, lòng hẵng miên man nghĩ đến hai tiếng “Chị dâu” của Phó Kính Thù.
Sau khi về trường, qua lời khiển trách của thầy, nó mới biết thằng nhóc bị nhét bùn vào miệng tên là Phó Chí Thời, hóa ra… họ đều là người nhà họ Phó. Nhưng vì sao gia đình Phó Chí Thời không ở trong dinh thự mà bố mẹ con cái đều nhìn Phó Kính Thù với ánh mắt chẳng chút thân thiết hay thiện cảm như vậy?
Hơn tám giờ tối, thầy chủ nhiệm lớp Phương Đăng nhận thấy chẳng có phụ huynh nào tới đón đứa học sinh rắc rối này của mình, bèn mắng thêm một chập, bắt viết bản kiểm điểm rồi cho con bé ra về. Phương Đăng hơi ngạc nhiên, mùi vị bùn đất ven hồ nó quá rõ, ngang tàng như Phó Chí Thời phải chịu nhục to, vậy mà cả nhà thằng này không tới tìm nó làm rùm beng lên. Nếu cho rằng họ nể mặt Phó Kính Thù mà bỏ qua, nghe cũng khó tin. Nếu họ nể trọng Phó Kính Thù đến thế, Phó Chí Thời là bậc con cháu sap dám tùy tiện nói năng bậy bạ.
Phương Đăng một mình lẻ bóng về nhà, đi qua nơi xảy ra chuyện, thấy sọt rác và túi bùn của mình đã bị mang đi mất. phương học nông cũng vừa về tới, lim dim đôi mắt hỏi con gái đã ăn cơm chưa. Phương Đăng lắc đầu, ông ta giơ cao bình rượu cười hỏi có muốn nhấp mấy ngụm không. Phương Đăng kéo soạt tấm mành vải ra che kín giường mình.
Ngày hôm sau, mặt trời mọc vẫn mọc, nhà họ Phó đối diện yên tĩnh như vốn có. Phương Đăng chẳng biết cơn bực dọc từ đâu, trưa tan học về tìm một tờ báo cũ, bịt kín khung cửa sổ rách nát duy nhất trong phòng. Căn phòng trọ bỗng chốc tối om om.
Ông phương học nông vừa nhai lạc rổn rảng vừa lẩm bẩm: “Hay lắm, tốt nhất nên như thế.”
Những ngày tiếp theo, tan học Phương Đăng lầm lũi về nhà một mình. Lỡ gặp Phó Kính Thù trong ngõ, nó sẽ giả vờ không quen biết nhanh chân bước qua, dĩ nhiên không còn leo lên bờ tường để nói chuyện với cậu ta nữa. Nó hiểu ra, Phó Kính Thù có thể không ghét nó, nhưng cũng chỉ đến thế. Cái kiểu của cậu ta là vậy, sẽ chẳng thân mật với ai, càng không tỏ ra ghét bỏ ai. Cậu ta sẽ không cố gắng đuổi con chó lang thang bên tường, cũng không đưa tay ra vuốt ve nó, vì cậu biết người nó bẩn. Như thế, cậu có khác gì những kẻ ngoài kia. Trái tim tràn trề nhiệt huyết của Phương Đăng giờ đã nguội lạnh.
Chương 4: Giọt Máu Dưới Chân Phật Tổ
Gạt Phó Kính Thù ra khỏi cuộc sống của mình, đảo Qua Âm trong mắt Phương Đăng bỗng mới mẻ như ngày đầu đặt chân đến. Trước đây nó chỉ nhìn mỗi bóng lưng Phó Kính Thù, hiện giờ mới phát hiện, hai bên con ngõ nhỏ trên đường đi học về nở đầy hoa chuối tây, những buồng lá xanh mỡ màng bọc quanh bông hoa lớn rực rỡ. Cho dù là hoa màu vàng mơ hay đỏ thẫm, đều toát lên vẻ đẹp vừa phong tình, vừa nồng cháy. Nó thích nhất hút lấy mật bên trong bông hoa chuối tây, ngọt đượm. Thêm nữa, tan học về không mất thì giờ quẩn quanh bên bờ tường Phó gia viện, nó tự làm một cái túi lưới đến bờ hồ bắt cá. Có ngày may mắn bỏ rọ mười mấy con, về nhà rán lên, ông phương học nông thích nhất món nhắm này, lần nào trông thấy cũng gọi “con gái rượu” không ngớt miệng.
Khoảng mười mấy ngày sau, cái sọt rác mà Phương Đăng tưởng đã bị công nhân quét rác mang đi bỗng xuất hiện một cách kì tích trước hành lang, bên trong là chiếc túi đựng phân hóa học được gấp gọn gàng. Nó bồn chồn ngó sang nhà họ Phó, không biết có phải do tưởng tượng, nó bỗng nhớ lại thời gian này, trong ngõ thường nghe thoang thoảng mùi bùn.
Ngày hôm sau Phương Đăng trực nhật về muộn, đến trước cửa tiệm tạp hóa lão đỗ, bất giác cảm thấy là lạ, ngoảnh đầu nhìn thì thấy tấm rèm nhung một nửa trên căn gác đối diện liền bị ai đó kéo vào. Nó mang xô và túi lưới định ra bờ hồ thử vận may, đi được vài bước, lại nghe có tiếng gọi.
“Phương Đăng, em qua đây.”
Đúng cái giọng nói ấy. Lần đầu tiên cậu ra gọi tên nó. Chính Phương Đăng còn cảm thấy tên mình nghe sao xa lạ. Nó giả vờ vô tâm quay lại.
“Làm gì?”
“Em vào đây, tôi cho em xem cái này.”
“Không! Có gì thì nói luôn.”
Nó đứng ngoài cửa, nói như máy.
Người đó không tiếp lời ngay, cái kiểu đủng đỉnh làm người ta phát ghét. Nếu còn dùng dằng, trời sập tối, ra hồ sẽ không an toàn nữa. Phương Đăng sốt ruột ra mặt, nhưng không cất bước.
“Cho em này.”
Nhìn theo mắt Phó Kính Thù, Phương Đăng trông thấy một chậu hoa đặt ngay dưới chân cậu, hình như là… cây chuối tây?
“Hơ, ai trồng thế!” Phương Đăng cười khinh khỉnh hòng che giấu vẻ kinh ngạc. Chuối tây là một trong mấy loại hoa ít ỏi mà nó biết tên, loài cây này mọc hoang khắp nơi trên đảo, chưa thấy ai trồng làm cây cảnh bao giờ, lại còn trồng vào cái chậu cũng ưa nhìn ta phết.
Phó Kính Thù nói: “Tôi nhổ từ bên đường trồng vào chậu, bón bằng phân bón em cho đấy.”
“Thảo nào khó ngửi thế thế!” Phương Đăng cố tình khịt khịt mũi.
“Lúc đầu hơi có mùi, nhưng phơi khô rồi nghiền nhỏ ra, dùng bón hoa nhiều chất lắm. Tôi chọn cái chậu đẹp nhất đấy. Em mang về chỉ cần tưới nước là được.”
Phương Đăng từ chối cái rụp, “Không thèm.”
Phó Kính Thù không giận, cười nói: “Em thù dai ghê.”
Phương Đăng cúi đầu rứt rứt những mắt cá túi lưới, thản nhiên: “Tôi bên này không phải chỗ trồng hoa.” Nơi ở của nó và cậu ấy không giống nhau, đừng nói là vườn hoa, đến một cái cửa sổ cũng không có, người còn chẳng có chỗ đặt chân, lấy đâu ra hứng thú trồng hoa.
“Hoa này cũng không khó trồng, chỉ cần…”
“Anh để nó sống bên góc tường là xong, cần gì phí một cái chậu… lại cả công sức nữa?”
“Em không thích à?” Giọng cậu ta vẫn êm ả dễ chịu như trước, khiến người khác khó mà cương quyết chối từ.
Phương Đăng đột nhiên cáu lên, nói lớn: “Tôi bảo thích lúc nào? Tôi thích cắn một miếng thật to, nhai nát, rồi nhổ nó ra đất đấy!”
“Vậy em cầm lấy mà ăn.” Phó Kính Thù điềm nhiên không ngờ. Phương Đăng bắt đầu cảm thấy chọc giận con người này là nhiệm vụ bất khả thi.
“Không ăn!” Nó buột miệng. Rõ ràng đang tức, bỗng dưng nó cảm thấy như mình mới là kẻ gây chuyện. Phương Đăng không ghét chậu hoa, thậm chí không thật sự ghét người trồng hoa. Có điều nó biết rõ dù mang chậu hoa về, chẳng bao lâu cha sẽ lại nhổ béng cái cây, quẳng đi, lấy cái chậu làm âu đựng bãi nôn. Hoa không đáng tiền, nhưng đã mang về trồng thì nên đối tốt với nó một chút.
Phó Kính Thù nghĩ một hồi, đâm lẩm nhẩm tự nói một mình: “Hay để tôi thay mặt cô chủ chăm sóc nó vậy.”
“Tùy.”
Phương Đăng không nói nữa, nó sợ nấn ná thêm, kể cả biết cây hoa sẽ bị cha chà đạp cũng sẽ mang về để ngắm hết đêm nay mất. Trước lúc trời tối nó kịp ra bờ hồ, nhưng một con nòng nọc cũng chẳng bắt được.
Tay không về nhà, vẫn còn buồn rầu vì chuyện ban nãy, Phương Đăng chạm mặt vợ chồng lão đỗ đứng ở cửa tiệm nghe ngóng. Cửa lớn Phó gia viện mở toang, đèn đuốc sáng trưng, chốc chốc lại có tiếng nói và bước chân vọng ra, thật là rộn ràng hiếm có.
Phương Đăng lòng đầy hoài nghi, dừng lại quan sát. Một lát sau, vào người đàn ông mình trần nhao nhao khiêng đồ ra ngoài, có cột nhà, có cả bàn ghế đá, cả mấy món đồ cổ trông kỳ quái.
“Cẩn thận, cẩn thận va vào đâu hỏng mất đấy!” Một người đàn ông trung niên đeo kính, dáng người mập mạp đi bên cạnh dặn tới dặn lui, vẻ mặt rất phấn khởi. Phương Đăng nhận ra, ấy là cha của Phó Kính Thời.
Ông già thọt chân nét mặt âu sầu đứng bên cửa là già Thôi, trong tay ông chực sẵn giấy bút, mỗi món đồ ra khỏi cửa, ông liền gạch một nét trên giấy.
“Đứng lại! Giàn hoa này ở lầu hai, không nằm trong những món chúng ta đã thương lượng.: Người đi sau cùng là mẹ Phó Chí Thời, “chị dâu” của Phó Kính Thù. Tay bà ta cầm món đồ gỗ chế tác tinh xảo, bị già Thôichặn đứng ngay cửa.
“Thằng già mũi thính hơn chó! Ai bảo đây là đồ trên lầu hai, rõ rành rành bày giữa cầu thang.” Xem ra người đàn bà chẳng coi già Thôi ra gì, cười nhạt hai tiếng: “Vả lại, nếu là đồ trên lầu hai thì sao? Trong nhà ngoài căn biệt thự này có cái gì không phải là của họ Phó ta? Năm xưa chúng ta sống ở đây, lão chỉ là thằng làm vườn quèn, bây giờ vẫn thế, lúc nào đến lượt lão lên tiếng hử?”
Già Thôi hơi khom người xuống, giọng nói không nặng không nhẹ, nhưng phảng phất chút chế nhạo, “Các anh chị sống ở đây? Mười ba tuổi ta tháy cha vào nhà họ Phó, năm nay ta bảy mươi ba tuổi. Chân què, tai điếc, nhưng đầu óc chưa lẫn. Mười mấy năm trước, ông Duy Nhân bên Phòng Lớn nhà các người còn tại thế đã điểm chỉ bán toàn bộ đồ đạc lẫn Phòng Lớn cho bà Trịnh nhà chúng ta. Cái phòng ấy chị chưa một giấy nào ở, những thứ bên trong chẳng có cái nào của anh chị sất.”
“Ô hô! Bà Trịnh ‘nhà chúng ta’. Già gọi thân mật đấy. Phòng Lớn nhà tôi ra ma rồi, già có giỏi thì đi theo bà Trịnh ‘nhà chúng ta’ đến Malaysia mà ăn hương ngậm hoa. Tiếc thật, người của Phòng Ba ở nước ngoài an hưởng thái bình, cơ mà chắc gì đã nhớ được tên lão.” Mẹ Phó Chí Thời trông vẻ ngoài ra dáng một phụ nữ trí thức, dù thẹn quá hóa giận nhưng nói câu nào câu đó sâu cay câu đó. Bà ta vỗ trán mình, chua giọng: “Suýt nữa thì quên mất, ông mà đi biết kiếm đâu con chó canh cửa cái nhà hoang này, tiện chăm sóc cho thằng con hoang chẳng biết ở đâu chui ra kia.”
Khi thốt ra câu cuối, bà ta cố ý thấp giọng nhưng Phương Đăng vẫn nghe được. Đèn ở lầu hai sáng tỏ, Phương Đăng thật mong lúc này có trận gió quét qua, cuốn đi những lời ác nghiệt ấy, đừng để lọt vào tai người kia. Nó không hiểu sao người phụ nữ đó phải thốt ra những lời như vậy.
Già Thôi tuổi cao, chân chậm tay run miệng lắp bắp, làm sao nói lại người đàn bà mồm năm miệng mười, cơn giận xông lên, lồng ngực già thấy như có chôn bễ gió bên trong. Hơi thở nặng nhọc, già nói: “Tài cán thì đừng mặt dày chia tay xin Phòng Ba tiếp tế, không có bà Trịnh, mấy năm trước anh chị xây nổi nhà mới không? Lời như thế mà cũng thốt ra được!”
“Chúng tôi nào có nói gì đến thím ba? Mấy món đồ này các người chẳng đồng ý rồi đó thôi!” Cha Phó Kính Thời chạy ra dàn hòa.
Đồng ý?” Giọng già Thôi bắt đầu the thé, “Chỉ học thủ đoạn của lũ đê tiện để tư lợi là nhanh!”
“Người trong nhà đã chẳng nói thì thôi, lão lắm lời làm gì?” Bà vợ mặc ông chồng khuyên ngăn, nhất định muốn giành phần hơn, “Lão có giỏi cứ đánh điện sang bên kia mách thím ba, bà ấy dù muốn nhúng tay vào việc nhỏ này cũng không để mặc cho lão già chết tiệt như ông muốn làm gì thì làm đâu.”
“Lưỡi dẻo lắm, lưỡi dẻo lắm! Mặc chị nó trăm câu vạn cách, chỉ có người sống trong kia mới đích thị là chủ nhân cái nhà này, anh chị tự tiện mang đồ đi, kể cả một cọng cỏ cũng là trộm! Trộm ranh! Cái thứ hạ tiện, chẳng trách Phòng Lớn các người…”
“Lão nói ai, Phòng Lớn làm sao…”
“Đừng cãi nữa.”tình huống gay go tưởng chừng như không thể chấm dứtỗng dưng bị gián đoạn, cứ như một gáo nước lạnh thình lình tạt lên cái nồi đương nóng bỏng. Phó Kính Thù không nõ từ khi nào đã đứng dưới gốc đa, nói với ra cửa chính: “Chú Thôi về nghỉ đi. Anh hai chị hai, mời mang đồ về, người cũng mời về cho.”
Già Thôi thở dài thượt, nghoảnh mặt đi vào trong. Người đàn bà kia định nói gì đó đã bị ông chồng giật mạnh tà áo ngăn lại, lắc lắc đầu, ý bảo việc xong thì rút mau. Bọn họ trắng trợn chế giễu Phó Kính Thù sau lưng, nhưng trước mặt vẫn phải kiêng dè vài phần. Cậu thường không giận không buồn, tỏ vẻ khách sáo, lại càng khiến họ được nước quấy nhiễu đến cùng.
“Tôi chẳng muốn ở lại chốn ma quỷ âm u ấy dù chỉ một phút!” Người phụ nữ nói.
Người đàn ông lôi vợ đi, tiện miệng đe nẹt vợ chồng lão đỗ và Phương Đăng đang đứng đấy: “Cút mau! Nhìn cái gì? không liên can đến chúng mày!”
Phương Đăng thoăn thoắt trèo lên góc tường quen thuộc, thấy Phó Kính Thù và già Thôi đang lom khom dọn dẹp. Cả khu vườn cứ như vừa trải qua cơn bão. Đám người khiêng đồ ban nãy giẫm nát mấy khóm hoa, thêm hai chậu cây trên hiên bị đánh đỗ, chậu vỡ làm mấy mảnh, bùn văng đầy đất. Tiểu Thất thu lượm từng thứ một, nhẹ nhàng dựng dàn hoa lên, thật cẩn thận. Phương Đăng càng thêm kinh ngạc, cái đình hóng mát sụt nửa mái bên miệng giêng đã hoàn toàn sập, bàn ghế đá bên trong bị mang đi từ lúc nào. Nó nhớ lại dáng vẻ Phó Kính Thù đứng vẽ bên đình, bày biện hoa cỏ trên bàn đá, bất giác trong lòng thấy buồn thay cho cậu.
Cuối cùng già Thôi cũng phát hiện ra Phương Đăng, quát: “Trẻ con nhà nào đấy? Chỗ đấy là chỗ để mày ngồi phỏng? Còn không xuống? Đi mau cho ta!”
Phó Kính Thù nghe tiếng thẳng người đứng dậy, đột nhiên nở nụ cười. Thần thái khi cười của cậu khiến Phương Đăng liên tưởng đến bầu trời xanh biếc trong giấc mơ hôm nọ. Nó tin, cho dù cả nhà po bày trò hèn hạ như thế nào cũng không thể làm cậu tổn thương.
Già Thôi thấy Phó Kính Thù cười, hơi hiểu ra, hoặc có thể cặp mắt quáng gà của già bây giờ mới nhận ra người trên tường. Rất nhanh, già phủi ống quần, khẽ nói với Phó Kính Thù: “Chú mệt rồi, về ngủ đây.”
Đợi già Thôi đi xa, Phương Đăng huỵch một tiếng nhảy xuống vườn. Phó Kính Thù nói: “Cần thận kẻo thành thiếu niên cụt chân đấy. À, phải là thiếu nữ cụt chân mới chuẩn.”
Phương Đăng thấy cậu ta còn pha trò được, bèn nhếch miệng cười hùa, ngồi cái rụp xuống thảm cỏ, lưng dựa vào con hồ ly đá.
“Sao họ không lấy con này đi?”
“Chắc thấy nó nặng, lại chẳng đáng tiền.”
Trên giàn hoa của cậu hẵng còn mấy chậu chuối tây mới trồng, trong đó có một chậu đang ra hoa. Tiểu Thất hái hết hoa xuống, đưa cho Phương Đăng, “Cho đấy, trẻ con đứa nào cũng thích mút cái này.”
“Nói cứ như anh lớn lắm, hơn tôi có hai tuổi, giở cái giọng ông cụ non!” Phương Đăng đón lấy hoa, hút một lèo hết sạch mật bên trong, cười hì hì, ánh mắt long lanh. Nó vỗ vỗ con cáo đá sau lưng, hỏi: “Hay anh không phải người, mà là cáo đá biến thân? Mấy món đồ trang trí này thường làm cả cặp, sao tự nhiên chỉ còn có một con? Người ta đều nói đồ vật lâu năm sẽ có linh tính, hóa thành yêu quái. Từ lâu tôi đã thấy anh chẳng giống người.”
“Em đang khen hay đang mắng tôi vậy?”Phó Kính Thù nhìn thấy bông hoa chuối tây bị Phương Đăng ném sang một bên, cười nói: “Cây chuối tây còn gọi là mỹ nhân thảo, Phật giáo cho rằng nó là máu tươi trên ngón chân Phật Tổ hóa thành. Em ăn suốt ngày,hấp thụ kha khá linh khí, biết đâu chính em mới biến thành hồ ly đấy.”
“Sao anh là hồ ly thì đươc biến thành người, còn tôi là người lại biến thành hồ ly?” Phương Đăng ngẫm nghĩ lời của Phó Kính Thù , càng nghĩ càng buồn nôn, “ý anh là trước giờ tôi toàn liếm ngón chân Phật Tổ?”
“Thấy không, tôi đã bảo em rất sáng dạ mà.”
Phương Đăng nhặt xác hoa dưới chân ném về phía cậu, “Phó Kính Thù , đồ khốn kiếp!”
Cậu ta nghiêng đầu né, học theo Phương Đăng ngồi xuống bên kia con hồ ly đá, “Ái chà, hiếm khi nghe em gọi tên tôi âu yếm như thế.”
Phó Thất đúng là đồ chẳng ra gì! “Phương Đăng bĩu môi nhưng trong lòng sớm đã chẳng còn giận nữa”
“Sao anh lại để bọn người đó cướp đồ đạc đi? “ Nói xong trong lòng nó nảy ngay ra một câu trả lời, thấy sợ, nó liền hoảng hốt ướm lời: “… Anh để họ mang đồ đi, người mà thằng nhãi Phó Chí Thời mới không làm phiền anh phải không?”
Phó Kính Thù nói: “Thế nào họ cũng tìm cớ khuân đồ đi. Nhưng chẳng sao, năm ngoái gió to làm đổ cây ngọc lan, mái đình vỡ mất một nửa, năm trước nữa lầu tây cũng sụp hẳn. Cho dù không có gia đình Phó Chí Thời, dinh thự này vẫn sẽ tàn tạ dần, biết đâu chừng lúc nào đó,lầu đông cũng chỉ còn là cây gỗ mục nát.”
Cậu ta nói như bay gió thoảng,Phương Đăng nẫu ruột chẳng buồn trả lời. Con bé ngàn vạn lần không ngờ một hành động xả giận nhất thời của mình lại tạo nên hậu quả như thế, hận không tự nhét bùn vào miệng cho xong.
Phó Kính Thù thấy nó im lặng,sắc mặt ủ ê, đoán ngay trong đầu nó đang nghĩ gì. Cậu đưa cọng cỏ đuôi chó ra khều khều mũi Phương Đăng, “Sao mà buồn? Cái gì phải đi sẽ đi, cái gì phải tới sẽ tới”.
---------- BỔ SUNG THÊM ----------
“ Bọn họ là người thân của anh thật ư?” Phương Đăng ảm đạm hỏi.
Cọng cỏ đuôi chó trong tay Tiểu Thất run run gật đầu. Cậu ngồi lại cho thoải mái, nói: “Già Thôi gọi tôi là Tiểu Thất run run gật đầu. Cậu ngồi lại cho thoái mái, nói:” Già Thôi gọi tôi là Tiểu Thất vì trong họ, tôi xếp thứ bảy trong các anh em ngang hàng. Già Thôi ban đầu lấn cấn không rõ nên gọi tôi thế nào, chú lớn tuổi nên đầu óc nghĩ không thoáng ra được, chẳng dám gọi thẳng tên tôi. Nhưng thời buổi nào rồi, không thể gọi lão gia, thiếu gia mãi được. Tôi chẳng phải là đại công tử gì, già Thôi nuôi tôi lớn, ông ấy như cha tôi vậy.”
“Vậy cha ruột anh đâu? Sao ông ấy để anh lại một mình ở đây… Cô Chu Nhan nói ông ấy ra nước ngoài rồi.”Phương Đăng hối hận vì đã lỡ lời, nó quên mất “Chu Nhan” là hai chữ cấm kỵ không thể nhắc đến với Phó Thất.
“Cha của Phó Chí Thời tên là Phó Kính Thuần, ông nội anh ta và ông nội tôi là anh em ruột. Cụ nội tôi, Phó Học Trình, có ba con trai, một con gái.Phòng Lớn* có Phó Truyền Bản, con trai Phòng Nhì tên Phó Truyền Cách, Phòng Ba con trai là Phó truyền Thanh, con gái tên gọi Phó Truyền Vân.”
“Tôi biết cụ nội của anh. Trong giờ lịch sử thầy từng nhắc đến ông ấy, còn có ông Phó Truyền Thanh, toàn những nhân vật tài giỏi. Phó Truyền Vân… có phải là nghệ sĩ dương cầm danh tiếng lẫy lừng Phó Truyền Vân không?” Phương Đăng không nén nổi ngơ ngẩn xuất thần, nghĩ tới những nhân vật ít nhiều ghi tên mình trong lịch sử cận đại của nước nhà đều xuất thân từ dòng tộc Tiểu thất, được chảy chung dòng máu với cậu ta, nó cảm thấy kỳ diệu.
Phó Kính Thù gật gật đầu, “Trong ba đứa con của cụ nội, con trưởng Truyền Bản sớm qua đời, để lại giọt máu duy nhất là Duy Nhân, mồ coi từ trong bụng mẹ. Ông Duy Nhân chính là ông nội của Phó Chí Thời, bác cả của tôi. Mẹ bác cả ở vậy nuôi con, bác không có anh chị em ruột, là người hiền hậu, an phận thủ thường, không thích kinh doanh. Thời trẻ trong nhà có của ăn của để, nhưng bác một mực ở lại đảo dạy học, sản nghiệp của Phòng Lớn quá nửa giao cho Phòng Ba thay mặt xử lý. Trước giải phóng, cả nhà học Phó dời ra hải ngoại, bác cả không chịu đi, nói gốc gác mình ở đây, cả đời giảng bài dạy học, sống thanh bạch, thời cục có biến đổi ra sao chẳng ảnh hưởng đến mình. Thực tế về sau bác chịu khổ rất nhiều, phần lớn là chịu thay cho gia đình đã sơ tán ra nước ngoài.”
“Sao ông lại giao tài sản đứng tên họ Phó cho bà Trịnh? Bà Trịnh là ai?”
“À, chuyện này đợi có dịp tôi sẽ kể. Sau giải phóng vài năm, sống trong dinh thự này không phải người họ Phó nữa, bởi chính phủ đã sung công ngôi biệt thự này. Nghe già thôi nói, vào lúc đông nhất nơi đây tề tựu hơn hai mươi hộ gia đình, chắc chắn em không tưởng tượng nổi không khí náo nhiệt lúc đó, vườn hoa ở cửa chính chi chít nhà gỗ dựng tạm.”
Phương Đăng cười giễu: “Đùa à, anh đúng là no quen không hiểu cảm giác người đói. Từ nhỏ tôi đã sống cảnh ‘náo nhiệt’, bây giờ cũng chẳng lấy gì làm ‘đơn côi’. Chưa biết chừng trong hơn hai mươi hộ ngày đó có ông bà người thân của tôi.”
Phó Kính Thù khẽ cười, tiếp tục kể chuyện quá khứ gia đình mình.
“Về sau, chính phủ ra chính sách khuyến khích kiều bào về nước, Phó gia viện được trả lại cho họ Phó, người sống ở đây lục đục dọn ra. Lúc đó lầu tây đã bị tàn phá khủng khiếp, lầu đông mà hiện nay tôi ở do diện tích nhỏ hơn, nên ít người vào sống hơn, có điều cũng trở nên tồi tàn đến mức đáng thương. Cả nhà bác cả ra ngoài sống hai mươi mấy năm, chịu đủ mọi giày vò, chẳng còn muốn dính dàng chút gì đến gia đình họ mạc nữa, họ mất hết nếp nhà. Do đó trước lúc lâm chung, bác Duy Nhân đã đứng ra bán hết toàn bộ tài sản còn sót lại của Phòng Lớn cho nguời chịu trách nhiệm Phòng Ba , bà Trịnh, vợ ông nội tôi.:
Nghe mấy chữ “Vợ ông nội tôi” thật nuốt không trôi, Phương Đăng biết bên trong có uẩn khúc, nhưng sợ lại phạm phải điều cấm kỵ của Phó Thất nên không dám tùy tiện hỏi.
“Sau khi ký tên vào thỏa thuận, Phó gia viện hoàn toàn không có liên quan tới người của Phòng Lớn nữa. Phó Kính Thuần còn một người anh, sau khi bác Duy Nhân mất, hai anh em liền chia nhau tiền bán nhà đi làm ăn. Kết quả, người anh lên phương Bắc, nghe nói cuộc sống tương đối khá. Phó Kính Thuần đi buôn lỗ chồng lỗ chất, có lúc bị săn lùng gắt gao nhà còn không dám về. May mắn sau đó cải cách mở cửa, họ liên lạc được với họ Phó ở nước ngoài, Phòng Hai Phòng Ba biết Phòng Lớn cơ cực, thường xuyên tiếp tế, do đó nhà họ mới khá giả hơn đa số dân đảo.”
“Nhà ấy cứ như bầy sói đói, mắt trắng dã!” Phương Đăng mường tượng lại vẻ mặt cả nhà Phó Chí Thời, bất giác bực tức thốt lên.
“Quyền quý cao sang ai chẳng muốn. Đều do cuộc sống thúc ép mà thôi. Họ sợ nghèo túng, cái gì vơ được là muốn vơ sạch. Tôi đoán cả nhà đó vẫn chưa hết oán hận vì sao cùng họ Phó mà người thân ở hải ngoại được sống sung sướng, còn họ phải thay cả dòng tộc chịu tội.”
“Kể cả thế cũng không nên lấy anh ra trút giận chứ!”
“Cá lớn nuốt cá bé là quy luật cuộc sống.” Phó Kính Thù nói bằng giọng điềm đạm, “Đối với những người cho họ cái này cái kia, dĩ nhiên họ chẳng dám ho he. Còn tôi không thể cho họ cái gì…. cũng là lẽ thường thôi.”
“Tiếp theo là về Phòng Nhì . Gia đình Phòng Nhì đứng đầu là Phó Truyền Cách, họ đơn giản hơn nhiều. Cụ tổ tôi có bà vợ lẽ, chỉ sinh được mụn con gái tên Phó Truyền Vân. Sợ sau này người vợ lẽ không có ai nương tựa, cụ tổ bèn đứng lên làm chủ, cho con trai của viên chủ quản thu chi các phòng sang làm con nuôi bà.”
“Ồ, tức là ông Phó Truyền Cách ở Phòng Nhì không phải con ruột cụ tổ của anh à?”
“Không sai, nhưng cụ nội đối xử với ông chẳng khác nào con ruột, ông cũng rất hiếu thuận. Ông Phó Truyền Cách theo đạo, cưới con gái nhà họ Khưu danh gia vọng tộc đảo Đài Loan, cũng là một con chiên ngoan đạo. Họ tiếp quản toàn bộ việc kinh doanh của cụ nội ở Đài Loan, chủ yếu là buôn gạo, trở thành gia đình giàu có hạng nhất. Phòng Nhì đời sau có bốn trai hai gái, là nhánh hưng thịnh nhất của nhà họ Phó.”
“Đáng tiếc dù thế nào cũng không phải huyết mạch họ Phó, chẳng trách Phòng Ba có tiếng nói lớn như vậy.” Phương Đăng trầm tư suy nghĩ.
“Đúng là tiểu hồ ly, cái gì cũng biết một ít.” Phó Kính Thù khẽ phe phẩy ngọn cỏ đuôi chó đuổi con muỗi vo ve giữa mặt hai người đi, “Dù trong gia phả họ rõ ràng là con cháu họ Phó, nhưng Phòng Nhì tự biết mình không phải dòng dõi chính tông, cho nên từ đời Phó Truyền Cách họ bắt đầu định cư bên Đài Loan, một lòng một dạ gây dựng ở đó. Căn nhà tổ này có khu dành cho Phòng Nhì , kỳ thực họ không ở đây được bao lâu, việc trong gia tộc họ ít khi chủ động hỏi đến. Sau khi Phòng Lớn suy bại, Phòng Ba làm gì thì họ theo nấy. Nhớ ơn cụ nội, nghe nói ở Đài Loan họ cho xây một tòa nhà không khác nhà tổ bao nhiêu, cũng gọi là Phó gia viện. Tuy là bản sao nhưng hiện nay ngôi nhà ấy chắc chắn đẹp hơn nơi này nhiều lần. Con cháu Phòng Nhì nhiều, tôi chỉ thi thoảng được nghe tin tức về họ, hình như phần đông không làm kinh doanh nữa, hoặc theo ngành y, hoặc làm nghệ thuật, đều sống đầy đủ khấm khá.”
Phương Đăng chưa bao giờ nghe cậu nói liền một hơi nhiều đến thế. Trông bộ dạng cậu khá thoải mái, có lẽ ai cũng cần những phút giây hồi tưởng và giãi bày. Nghe cậu nói chuyện với Phương Đăng là một cách hưởng thụ, đến lũ ruồi muỗi nhảy múa trêu ghẹo cũng không làm nói phiền lòng.
“Ông Phó Truyền Thanh Phòng Ba chính là ông nội của anh. Tên tuổi người này cũng chẳng kém cha mình là mấy.”
“Ông nội Phó Truyền Thanh là con trai nhỏ nhất của cụ tổ, do bà cả sinh ra, được nâng niu như bảo bối. Ông không chịu kém ai, từ nhỏ cần cù trau dồi, thông minh quả cảm, rất có khí phách của cụ tổ thời trẻ nên được cưng chiều nhất trong đám anh em. Năm hai mươi tuổi, dưới sự sắp xếp của gia đình, ông nội lấy con gái một vị đô đốc ở Malaysia, họ Trịnh, chính là bà Trịnh mà hiện giờ mọi người nhắc đến. Sau khi kết hôn ông chính thức thay cha xử lý công việc, kế thừa sản nghiệp, khuêch trương kinh doanh gỗ và cao su của gia đình. Ngoài các việc kinh doanh do cụ tổ dốc sức đặt nền móng từ trước, tự ông đặt làm thuyền buồm, mở rộng ngành hàng hải. Đó là thời điểm cực thịnh của nhà họ Phó, hàng năm tiền của thu về như nước, trở thành tài phiệt đứng đầu một thời. Dưới tay ông nội, Phó gia viện được sửa sang xây mới, vườn hoa được hoàn thiện, lầu đông được cất lên để cho phụ nữ trẻ con Phòng Ba vào ở. Ông nội tôi tên chữ là Phong Đào, thời đó lầu đong còn có tên là biệt viện Phong Đào, chính là nơi tôi ở hiện nay.”
“Ông nội anh có mấy bà vợ, mấy người con?” Đây mới là điểm mấu chốt của vấn đề, Phương Đăng dè dặt hỏi.”
“Phòng Ba không đông con cháu như Phòng Nhì . Ông nội tôi chỉ có một người vợ, chính là bà Trịnh, nay bà vẫn còn khỏe mạnh.”
Phương Đăng thấy khó hiểu: “Sao lại….”
Phó Kính Thù thật sự giống như một con hồ ly tu luyện ngàn năm, nhìn sơ là thấu hiểu suy nghĩ của người khác. Cậu thủng thẳng tiếp lời Phương Đăng: “Bà Trịnh cũng là một người phụ nữ hiếm có, nhân phẩm tài mạo không thua kém ông nội tôi chút nào. Bà là con gái độc nhất trong gia đình, con người thông minh, tinh nhanh sắc sảo, rất có tiếng nói ở nhà mẹ đẻ. Ngày ấy bà mang theo của hồi môn kếch xù đến làm dâu họ Phó. Có thể nói nếu không được nhà ngoại giúp đỡ, họ Phó khó lòng gìn giữ được thịnh vượng suốt bốn đời ở Nam Dương*. Ông nội khi còn sống cũng rất kính trọng bà…”
“Á à biết rồi nhé, ông nội anh sợ vợ!” Phương Đăng vừa cười vừa vỗ tay, tự thấy vô duyên liền nhăn mặt.
Phó Kính Thù nửa cười nửa không. “Tóm lại, bà Trịnh là nội tướng giỏi giang của ông nội cả đời. Có điều… Kết hôn vài năm, con trai và con gái sinh được đều chết yểu, rất lâu sau không sinh thêm nữa.”
“Sau đó thì sao…”
“Đầu thập niên Bốn mươi, tình hình trong nước sáng sủa dần. Ông nội đồng ý kiến nghị của bà Trịnh, cả Phòng Ba cùng dọn về Malaysia. Phòng Nhì thì ở đảo Đài Loan, cơ ngơi nhà họ Phó trừ Phòng Lớn , chỉ còn hai người làm chịu trách nhiệm trông coi.”
“Tôi đang hỏi ông nội anh sau này có con không cơ mà?” Phương Đăng kỳ thực chỉ quan tâm thân thế và số phận của Phó Kính Thù, những chuyện khác chẳng liên quan gì đến nó.
“Em kiềm lòng không đặng nữa rồi.”Phó Kính Thù cười cười, “Tôi đang kể đến chuyện đó đây. Đêm trước giả phóng, người ở Phòng Ba , thực tế chính là toàn bộ quyến thuộc sót lại của họ Phó, mang theo hầu hết vật dụng đáng giá bỏ đi cả, chỉ còn lại một người làm vườn, chính là già thôi, một cô hầu, và… đứa trẻ trong bụng cô hầu ấy.”
“Đó là cha của anh phải không?” Phương Đăng nói xong khẽ ngậm miệng lại, hỏng, nhất thời kích động lại làm chuyện ngốc nghếch rồi. Việc xảy ra đã hàng chục năm về trước, nếu là sự thật, Phó Thất chắc chắn là yêu quái có bí thuật gìn giữ tuổi xuân.
Phó Kính Thù ngửa cổ lên mà cười, “Phương Đăng, em đúng là…” nụ cười của cậu ta thật cạn, chớp mắt đã vụt tan, “Chính là cha tôi đó, tên ông là Phó Duy Nhẫn.”
“Tại sao người khác tin đó là con của chủ nhà, chứ không phải con của cô hầu và anh làm vườn?” Phương Đăng thầm cầu cho già thôi không nghe được lời này.
“Bởi vì cô hầu gái và người làm vườn là hai chị em. Một năm sau ông nội tôi đích thân gửi thư thừa nhận, còn nhờ người Phòng Lớn chăm sóc giúp. Vốn ông định chờ vài năm để bà Trịnh tâm trạng dễ chịu hơn sẽ đón hai mẹ con sang, ai ngờ chớp mắt thời thế thay đổi, việc đó không được, vậy là họ chờ liền mười mấy năm.”
Phương Đăng nói: “Ban đầu cô hầu bị cho ở lại coi vường chắc là chủ ý của bà Trịnh.”
Phó Kính Thù cười đáp: “Có lúc em thông mình ghê, có lúc sao mà ngốc. May mà thời gian thông mình nhiều hơn. Cô hầu ấy tên là Tiểu Xuân, mọi người thường gọi là Tiểu Xuân cô nương. Cô là con bà vú của ông nội, lớn hơn ông năm tuổi.”
Phương Đăng há hốc miệng kinh ngạc, “Về sau Tiểu Xuân cô nương, bà nội của anh cũng đi Malaysia chứ?”
“Không, bà chết rồi. Đáng ra là đi được. Dù gì đứa con Tiểu Xuân cô nương sinh ra cũng là giọt máu duy nhất của ông nội. Không ngờ bà Trịnh bôn ba tìm thuốc cuối cùng cũng đạt được ý nguyện, hơn ba mươi lăm tuổi bà sinh đôi một trai một gái. Bà không chịu đón hai mẹ con sang nữa. Đến tận lúc ông nội qua đời, trước khi lâm chung phó thác bà Trịnh nhất định phải đón cha tôi về Malaysia nuôi dạy tử tế. Bà Trịnh niệm tình vợ chồng mấy chục năm, cuối cùng đành nhận lời.” Phó Kính Thù thuật lại qua loa.
“Tiểu Xuân cô nương sao lại chết? Sao anh không sang Malaysia với cha?”
“Em thắc mắc quá nhiều đấy. Tôi không đi là vì bà Trịnh chỉ đồng ý mang ‘con trai’ của ông nội về Malaysia, chứ không kèm theo bất cứ ai khác.”
“Anh mà lại là ‘ai khác’ ư?” con bé ngầm cảm thấy căn nguyên bên trong nhất định có liên quan đến cô cn, nếu không Phó Duy Nhẫn làm sao nỡ để lại vợ trẻ con côi mà đi xa. Nhưng Phương Đăng không dám hỏi đến việc này.
Chuyện Phó Kính Thù không muốn nói chẳng ai ép được cậu ta mở miệng.
“Vẫn thích để muỗi cắn tiếp à? Tôi không muốn mai đến trường mọi người tưởng mình bị phát ban đâu.” Cậu chuyển ngay chủ đề.
Phương Đăng quay sang nhìn, góc vườn có một ngọn đèn vàng lờ nhờ, gương mặt Phó Thất bình thản như thường, nhưng Phương Đăng thấy rất rõ, đôi mắt luôn trong sáng lạ thường của cậu lúc này hơn mơ màng, có lẽ vẫn đang lạc lỗi trong câu chuyện năm xưa.
“Thôi về, mặt ngứa quá.” Phương Đăng rảo bước đến chân tường, quay lại nói với Tiểu Thất thêm một câu, “Hay thật, tôi ngưỡng mộ anh đấy.”
“Ngưỡng mộ tôi?” lời nói không suy nghĩ của Phương Đăng khiến Phó Kính Thù kinh ngạc.
Phương Đăng gật đầu nói: “Người nhà anh cứ như sống trong tiểu thuyết ấy. Chẳng trách mọi người đều bảo họ Phó là gia tộc hoành tráng nhất đảo này. Nếu tôi là anh, nhất định sẽ thấy tự hào lắm.”
Phó Kính Thù ném cọng cỏ đuôi chó đã mân mê cả buổi tối xuống đất, cười giải vây, lời nói đượm chút hiu quạnh, “Ngoài cái họ, em xem tôi và những người từng sống trong nhà này có gì giống nhau nữa đâu?”
“Dĩ nhiên!” Phương Đăng trả lời chẳng thèm suy nghĩ, “Nói không chừng anh còn tốt hơn… Xem nhé, anh biết vẽ, lại còn biết trồng hoa.” Con bé hình như cũng cảm thấy mình đang nói linh tinh, bèn gãi gãi đầu, cười tiếp: “Dù sao tôi chẳng quen ai họ Phó còn sống trừ anh. Cái thằng ranh Phó Chí Thời và nhà nó chẳng nói làm gì, mấy người đó không xứng, chỉ là con chồn sinh ra trong ổ phượng hoàng thôi. Toàn làm mấy trò trộm gà bắt chó vớ vẩn.”
Phương Đăng nói xong, sột soạt một hồi đã leo lên đầu tường, tư thế chẳng mấy đẹp đẽ. Con bé hùng hồn chỉ trích người khác trộm gà bắt chó, cứ làm như mình đường hoàng rời khỏi nhà người ta lắm. Nhanh nhẹn nhảy xuống đất, nó vẫn nghĩ mãi không hiểu nụ cười của Phó Kính Thù khi tiễn mình ban nãy là gì. Cậu ta ngồi trong tối, mà sao nụ cười cứ sáng như trăng đầu hè.
Hoặc giả, tất cả chỉ là nó tưởng tượng ra.
Chương 5: Em Thắng Rồi Ạ
Sáng sớm ngày hôm sau, Phương Đăng xé hết giấy báo bịt cửa sổ, theo thói quen nhìn sang khung cửa sổ đối diện. Nó kinh ngạc phát hiện bên bậu cửa bên đó có thêm một chậu chuối tây, đáy chậu ướt sườn sượt, hình như vừa tưới nước xong. Trong phiến lá xanh bóng mập mạp nhú ra một bông hoa màu vàng mơ.
Ông Phương Học Nông đang ngủ trên giường trúc bị ánh sáng chói mắt đánh thức, một tay che mắt lồm cồm ngồi dậy làu bàu: “Sáng sớm tinh mơ sao mày đứng cười như con điên thế? ”
Phương Đăng đưa tay sờ lên mặt mới biết mình đang cười. Nó ngượng ngịu đáp trả, “Thế bố thích con đần cái mặt ra mãi à? ”
Phương Học Nông nhặt bình rượu tối hôm trước lên, lắc lắc, “Mẹ nó, lại hết. Lão Đỗ dưới nhà mở cửa hàng chưa? ”
“Hàng người ta mở lúc nào con biết làm sao được. Bố có giỏi thì tự xuống mà mua.” Phương Đăng vừa nói vừa chải đầu.
Thấy con gái không chịu mua nợ, ông Phương Học Nông sa sầm nét mặt. Vô tình nhìn theo hướng mắt con, ông khinh khỉnh hừ một tiếng, giả đò thâm sâu: “Thảo nào con gái bố sớm tinh mơ đã cười như hoa nở. Mày quan tâm người ta, người ta đã lần nào để mày vào mắt chưa? ”
“Bố nói mơ đấy à? ”
“Chả trách ngay lão Đỗ cũng kêu mày suốt ngày cứ như con ngốc lẽo lẽo theo đít người ta, mới đầu tao không tin. Đúng là bôi gio trát trấu vào mặt bố mày…”
Phương Đăng dù gì tuổi hẵng còn nhỏ, bị nói cho nóng bừng cả mặt, vừa thẹn vừa bực ném cái lược lên giường, “Mặt bố đẹp lắm ấy mà sợ… Đừng tưởng con không biết vì sao sáng ngày ra bố đã lên cơn, chẳng qua muốn con xuống lầu mua hộ bình rượu chứ gì? ”
“Biết rồi còn chưa đi mau? ” Nói tới rượu, ông Phương Học Nông chẳng nhớ gì nữa.
“Vợ lão đõ hai hôm nay về nhà đẻ, nói không chừng lão sẽ tình nguyện bán chịu cho con thêm hai bình.” Phương Đăng lẩm bẩm mộ mình. Hai con mắt đục ngầu của Phương Học Nông sáng lên, suýt nữa dày mặt gọi “gái ngoan của bố”. Phương Đăng đột nhiên đổi giọng, “Nhưng con lấy tư cách gì mà mua chịu hộ bố, làm xấu mặt bố thì chết.”
Con bé cắp cặp đi thẳng, nhanh nhẹn lách qua cánh tay định ngáng đường của ông bố.
“Dám trêu ông à? Xem tao có đánh chết mày không !” Chửi cho dạn mồm, nhưng bước chân loạng choạng của kẻ say làm sao theo kịp Phương Đăng. Thấy con vèo cái đã xuống dưới nhà, ông chỉ đành chửi vống theo, “Toàn là loại chẳng ra gì!Tao biết ngay lũ chúng mày đê tiện giống nhau, chỉ ngong ngóng trèo cành à đứng, mày rồi cũng chẳng có kết cục tốt đâu, như cô mày ấy…”
Phương Đăng vừa ghê tởm vừa kinh ngạc quay lại nhìn, cha đứng trên lầu ló ra cầu thang, mặt mày đỏ lựng, đã lâu lắm rồi ông không nổi điên đến như thế. Thậm chí con bé còn không rõ giờ ông đang tỉnh táo hay lại say rồi.
“Chúng mày tưởng nhà đối diện ghê gớm lắm sao? Chẳng qua một đám con hoang, toàn là con hoang… Thế nào cũng có ngày ông lột da chúng nó…”
Tiếng mắng chửi càng lúc càng tục tằn của ông xa dần. Phương Đăng còn lạ gì, có chửi dữ hơn nữa ông cũng chẳng dám xông ra làm gì nó. Con bé chỉ thấy khó hiểu, vì sao nỗi hận trong lòng ông lại bén rễ sâu đến vậy, chẳng lẽ là vì chuyện cô cn?
Xuống dưới tầng trệt, Phương Đăng nghênh nghênh cái đầu, liếc nhìn cây chuối tây trên bậu cửa sổ một cái, hòng thổi bay nỗi bực dọc bố nó vừa mang lại. Hôm nay lão Đỗ mở hàng sớm ra trò, mấy đứa học sinh gần đó ùa khỏi tiệm, tay mỗi đứa cầm một cái bánh mỳ, vừa đi vừa cắn.
“Ái dà, sớm thế. Ăn gì chưa? Hôm nay có bánh mỳ mới nóng giòn đấy.” lão Đỗ vồn vã mời mọc. Bà la sát trong nhà đi vắng nên lão có vẻ táo bạo khác thường, “Cháu ra đây nếm thử xem, sợ gì, bác không lấy tiền đâu !”
Phương Đăng cười nhạt, trên đời làm gì có của biếu không, lão già dê cứ tưởng ban chút ơn vặt mà muốn làm gì thì làm chắc.
“Không lấy tiền thật à? Cháu xin một miếng được không? ”
Một giọng nói rụt rè vang lên. Phương Đăng lúc này mới chú ý ở cửa có đứa nhóc đang đứng. Đó là một cậu bé còi cọc, mặc bộ đồng phục giống nó, nhưng hình như bé hơn mấy tuổi. Gương mặt cậu ta đen nhẻm, thò lò nước mũi hai hàng, sụt sịt thoắt dài thoắt ngắn theo hơi thở.
“Mơ đấy à, thằng nhãi.” lão Đỗ sốt ruột đuổi thằng nhóc đi, nhưng hai con mắt bé ti hí ấy cứ dính chặt lấy mấy cái bánh mỳ trong tủ kính. Bánh mỳ buổi sớm mới ra lò, lớp vỏ vàng ruộm thơm giòn lộ ra dưới bao nilon trong suốt, thật là cám dỗ cùng cực đối với những kẻ them thuồng.
Lão Đỗ bị Phương Đăng ghẻ lạnh, lại thấy thằng nhóc đứng im không nhúc nhích, muốn đẩy nó đi càng xa càng tốt, trông nó nhếch nhác, lại sợ đụng vào bẩn tay, liền mắng: “Thèm rỏ dãi chưa con! Muốn ăn à? Tìm Chúa mà xin tiền đi đã.”
Nghe lão Đỗ nói thế, Phương Đăng cũng đoán được cậu bé này từ đâu đến. Quả nhiên, lưng cậu khoác một chiếc cặp sách bằng vải đen bạc màu, đó là dấu hiệu đặc biệt chỉ có trẻ con ở cô nhi viện Thánh Ân mới có. Dù được chính phủ và một số nhà hảo tâm trợ giúp, nguồn thu của cô nhi viện vẫn có hạn, tiền chi dùng lại tốn kém nên những đứa trẻ trong đó phải sống khá kham khổ, điều này ai cũng biết. Song, ít nhất chúng được ăn no mặc ấm, quần áo tuy cũ kỹ lâu ngày nhưng các bà sơ chăm chút khá sạch sẽ gọn gàng, lôi thôi bẩn thỉu như cậu bé kia quả là hiếm thấy. Có điều nghĩ kỹ cũng không lấy làm lạ, Phương Đăng thầm đoán, ở đâu không xảy ra chuyện cá lớn nuốt cá bé? Cô nhi viện không phải là ngoại lệ. Đứa bé kia gầy gò yếu đuối như thế, không bị người ta bắt nạt ruồng rấy mới là lạ. Sợ rằng thường nhật các bà sơ cũng ít khi để ý đến, mặc nó trong như thằng ăn mày thế này.
Phương Đăng lo cho bản thân còn chưa xong, chẳng thừa tâm tư đi thương hại một thằng nhóc vô dụng. Trước khi rời đi, nó nghe thấy thằng nhóc cất giọng quê mùa hỏi lão Đỗ : “Lấy cái này đổi được ko bác? ”
“Đổi cái bủm! Cút! Đừng cản trở ông mày làm ăn.”
Một vật bé xíu bằng cỏ bị ném tới bên chân Phương Đăng. Hình như là con chuồn chuồn, tết khéo nên giống lắm. Chẳng biết thằng nhóc moi ở đâu cái suy nghĩ viển vông rằng, dùng món đồ chơi con nít mà đổi được cái ăn từ chỗ lão đỗ.
Thằng nhóc thun thút cúi xuống nhặt chuồn chuồn lên, tủi thân quá đỗi nhưng chẳng dám khóc to, lúc nó khom lưng, hai sợi nước mũi quết cả xuống đường. Phương Đăng lắc đầu bỏ đi.
Trong lớp, Phương Đăng chống cằm nhìn lên bảng nhưng đầu chỉ nghĩ đến chậu chuối tây. Một ngày bình yên trôi qua thật mau, tan học phải ở lại trực nhật, con bé vừa hát véo von vừa làm nhoay nhoáy.
Trên đường về nhà, trời đã sâm sẩm tối, Phương Đăng rẽ vào con ngõ nơi mình đang ở, chợt xa xa trông thấy Phó Chí Thời đang nghênh ngang đi tới. Nhà Phó Chí Thời nằm phía bên kia hòn đảo, nó xuất hiện ở đây thường là đi mua quà vặt ở hàng lão Đỗ. Trong lòng Phương Đăng dấy lên một cơn chán ghét cùng cực, nhân lúc thằng đó chưa thấy mình, liền lùi lại nấp vào một ngách nhỏ ngược hướng đường về của cậu ta. Nó chẳng ngán gì thằng khốn ấy, không muốn đụng độ chẳng qua vì lo nếu cu cậu giở giọng chim lợn, nó không kìm được lại đánh ột trận. Lúc ấy e rằng sẽ mang rắc rối đến cho Phó Kính Thù.
Ngách nhỏ quanh co và bờ tường khúc khuỷu là một nơi ẩn náu tuyệt vời. Đúng như nó dự đoán, Phó Chí Thời nhởn nhơ rẽ sang một lối khác. Cậu ta chẳng hề biết sau khóm hoa mai giấy lớn cách đó mươi bước có Phương Đăng đang núp, nhưng vẻ mặt vênh váo lẫn món đồ trong tay thằng nhóc đều nằm trong tầm mắt Phương Đăng.
Thứ trong tay Phó Chí Thời đối Phương Đăng trông thật quen mắt : Một con chuồn chuồn cỏ.
Dợi Phó Chí Thời đi xa, Phương Đăng mới rảo bước về nhà. Đi qua bồn hoa giữa cô nhi viện Thánh Ân và cửa hàng tạp hóa, nó chẳng mấy ngạc nhiên khi thấy một thằng nhỏ đáng thương đang rúm người khóc nức nở vì mất món đồ chơi yêu quý.
Chắc cảm nhận được có người nhìn mình, thằng nhỏ đáng thương càng được thể khóc thảm thiết hơn. Nhưng có tủi mấy, tiếng khóc của nó cũng chỉ dám i ỉ trong lồng ngực và lỗ mũi. Người đã quen bị bắt nạt là thế, khóc cũng không dám khóc cho thoải mái. Mặc dù nó cúi gằm mặt, Phương Đăng vẫn tưởng tượng ra hai sợi nước mũi cứ như vĩnh viễn không thể lau sạch của nó chảy lòng thòng, trông vừa tội nghiệp vừa hèn kém làm sao.
Lòng Phương Đăng trào lên cảm giác rã rời xen lẫn bực bội kỳ lạ. Rất lâu rất lâu về trước, có một đứa bé gái con lão nát rượu vẫn thường trốn trong xó tường lén khóc vì trò chòng ghẹo ác ý của đám trẻ hàng xóm, nhưng cô bé đó nhanh chóng học cách nén đi những giọt nước mắt vô ích, đau đớn và phẫn nộ hãy dành để rèn nên vũ khí bảo vệ mình, chứ đừng trở thành cái cớ để dày vò bản thân.
“Nó cướp đồ của mình mà không biết đường đánh lại à? ” Phương Đăng sẵng giọng hỏi.
Bé chuồn chuồn dường như không ngờ con bé sẽ nói chuyện với mình, tiếng thút thít ngừng lại một chút, hồi lâu mới run giọng đáp : “Em đánh làm sao được nó.”
Dích thực, Phó Chí Thời cao hơn thằng nhóc quá hai cái đầu, đừng nói đánh nhau, e rằng thằng kia chỉ cần hét lên một tiếng, bé chuồn chuồn đã hai tay dâng chuồn chuồn cho nó rồi. Phương Đăng cảm thấy chiều cao cân nặng chẳng thành vấn đề, bực mình mắng : “Cứ cho là máy đánh không lại, nhưng nó đấm mày ba cái, mày cũng phải đá nó một cái chứ? Chị mày không tin nó chặt gãy một tay mày mà mày không nhổ nổi một cái răng của nó !”
Bé chuồn chuồn có vẻ bị mấy câu nói của Phương Đăng làm cho khiếp vía, ngẩng đầu mở to mắt nhìn bà chị, quên cả xịt mũi, hai sợi nước mũi tha hồ đung đưa dưới cằm của nó.
“Không dám chứ gì! Vì mày là đồ vô dụng nên mới để người khác bắt nạt !” Phương Đăng khinh thường nói.
“Nó…” mặt bé chuồn chuồn nhem đầy nước mắt, vô thức lùi sâu về phía bồn hoa, “Em không dám.”
“Thế thì khóc đến chết cho đáng đời !” Phương Đăng mặc thằng nhóc, bước về trước mấy bước. Dáng vẻ hớn hở của Phó Chí Thời khi cầm con chuồn chuồn cỏ trong tay không ngừng lóe lên trước mắt Phương Đăng, lại còn ngay chỗ đông người nữa… Tận mắt trông thấy bố mẹ Phó Chí Thời mượn chuyện đứa con đến nhà họ Phó “dọn” đồ đi, trong lòng Phương Đăng đã ủ sẵn một đống lửa. Nó nhếch miệng một cái, quay lại kéo thằng bé đáng thương từ trong góc đứng dậy.
“Có gì mà không dám? Đi với tao !”
Người bé chuồn chuồn nhẹ bẫng như phiến lá bay, để mặc Phương Đăng kéo đi vùn vụt. Rẽ trái ngoặt phải qua vài cái ngõ nhỏ, bóng dáng phởn phơ của Phó Chí Thời đã xuất hiện cách đó không xa.
Phương Đăng ngó quanh, tứ phía không người, trời nhập nhoạng tối, đèn đường chưa bật. Nó ra hiệu cho thằng nhóc bước nhẹ chân, tự tay quơ lấy cái sọt rác rỗng làm bằng trúc ở bên đường, phóng vèo như một con báo đến sát lưng Phó Chí Thời. Thừa cơ thằng này chưa kịp quay lại, con bé nhanh nhẹn ụp cái sọt lên đầu nó, thuận chân giẫm lên khớp gối đối phương. Phó Chí Thời hoàn toàn không đề phòng lập tức thét lên “ui da”, cả người đứng không vững đổ ập về phía trước. Phương Đăng không đợi nó kịp ngóc đầu dậy, lấy cặp sách nện cho nó bò toài ra mặt đường đá xanh.
Phó Chí Thời vùng vẫy rút được đầu ra khỏi sọt rác, Phương Đăng đã cưỡi lên người nó, thấy cu cậu định ngoảnh mặt lên, bèn tát một quả nầy đom đóm mắt vào bản mặt núc ních dính đầu bụi đất.
“Ai ày bắt nạt người khác, ai ày bắt nạt người khác hả !”
Phó Chí Thời không đâu bị úp sọt, có vẻ như nắm tay quyết liệt của Phương Đăng khiến cu cậu chết đứng, chẳng nghe tiếng kêu la, cũng không thấy giãy giụa gì nữa, mặt nó đần ra, hai mắt nhìn chằm chằm đứa con gái đang cưỡi trên người mình.
“Thằng kia ra đây !” Phương Đăng giục thằng bé con lúc này đang run cầm cập, mau lẹ ra chỉ thị : “Đánh đi, đánh nó như ban nãy tao đánh ấy, mau !”
Thằng nhóc thò lò mũi xanh sợ quá, lại i ỉ khóc. Phương Đăng vừa ngừng đánh, Phó Chí Thời liền tìm cách vùng dậy, bèn bị Phương Đăng dùng cặp sách ép chặt thân trên, giọng nói con bé trở nên vừa gấp gáp vừa chói tai : “Tao bảo đánh nó mày nghe thấy không? Hôm nay mày không xử nó, sau này nó sẽ bắt nạt mày mãi !”
Bé chuồn chuồn rụt vai rón một bước lên trước.
“Chúng mày dám… Bỏ tao ra, tao cho chúng mày biết tay.” Phó Chí Thời vùng vẫy mạnh hơn. Sức lực Phương Đăng vốn không địch lại một đứa con trai cùng tuổi, chẳng qua dùng mưu đánh úp bất ngờ rồi dập túi bụi mới nhất thời khống chế được đối phương.
“Cái thằng hèn! Nó thấy mặt mày rồi, bây giờ mày có đánh hay không, sau này nó vẫn luộc mày!” Phương Đăng thở phì phò, hét vào mặt thằng nhóc. Câu nói của con bé phát huy tác dụng, bé chuồn chuồn do dự một thoáng, rồi lúng ta lúng túng sụp xuống, nửa quỳ nửa ngồi, nghiêng người đè bàn tay đang nắm tóc Phương Đăng của Phó Chí Thời xuống đất. Thằng nhóc nhắm tịt mắt, khua bừa tay giáng một tát vào mặt Phó Chí Thời , cơ mà nhẹ quá, chỉ đủ phủi bụi hộ nó mà thôi.
Phó Chí Thời vốn kiêu căng ngạo mạn, giờ bị một thằng ranh con nhãi nhép đánh, nó tức lồng lộn, phóng một cánh tay ra bóp chặt cổ thằng bé. Bé chuồn chuồn dùng hết sức bình sinh kéo tay nó ra, trong khi giằng co, cu cậu cắn mạnh vào mu bàn tay Phó Chí Thời một cái, Phó Chí Thời đau quá hét lên.
“Mày biết làm thế nào để khỏi bị bắt nạt không? Khiến nó sợ mày! Mày thắng được nó, nó biết sợ, sẽ tránh xa mày ra. Thỏ đế sợ đau sẽ bị đánh càng đau, cả đời không ngóc đầu lên được!” Giọng nó Phương Đăng đúng lúc ấy vang lên bên tai thằng nhỏ.
Hai đánh một không chột cũng què, bé chuồn chuồn và Phương Đăng hợp lực đè Phó Chí Thời ra đất, thằng bé con có vẻ kích động, nó nhặt con chuồn chuồn cỏ rơi bên người Phó Chí Thời nhét vào túi, bàn tay gầy trơ xương quắp lại như người bị phong gà, một trận liên hoàn đấm như mưa hỏi thăn khắp người Phó Chí Thời .
Thấy Phó Chí Thời không buồn chống cự nữa, Phương Đăng biết đã đến lúc, liền nhỏm dậy, kéo luôn bé chuồn chuồn lúc ấy hai mắt đang tóe lửa đi, “Thôi đủ rồi, chạy mau.”
Hai đứa nhân trời tối ù té chạy, mấy ngọn đèn đường lần lượt bật sáng sau lưng cũng không dẹp tan được cảm g