Ngồi khóc trên cây
tôi phải thú nhận là tôi hết sức khoái trá khi thấy gương mặt thằng Thục đột ngột méo đi.
-Mày… mày…
Thục ấp a ấp úng, trông nó như người vừa nuốt phải lưỡi.
Bé Loan bước lại chỗ Thục, thò tay véo thằng này một cái:
-Nói xấu chị Rùa nè!
Thằng Thục có vẻ rất ngán bé Loan, dù nó lớn hơn con bé đến bốn tuổi. Con bé này véo nó chắc là đau lắm nhưng Thục chỉ biết ôm cánh tay xuýt xoa.
Bữa đó, tôi chở thằng Thục về tới đầu cầu treo. Khi leo xuống khỏi yên và giao xe lại cho nó, tôi cười nói:
-Tao biết mày thù con Rùa chuyện nó giành nắp keng với mày nè.
Thằng Thục cầm lấy ghi-đông, mặt đột nhiên nghiêm trọng:
-Tụi em không chơi với nó vì nó là một đứa… một đứa…
-Một đứa gì?
-Một đứa…. – Thục nhíu mày, nó lục lọi vốn từ trông vất vả như đang tìm một đồng xu đánh rơi trong bể cá – Nói chung nó là một đứa… một đứa không bình thường.
-Tao vẫn chưa hiểu một đứa không bình thường là một đứa như thế nào! – Tôi liếm môi, vẫn nhìn chằm chằm vào mặt Thục.
-Là nó không giống như tụi em. Nó không giống bất cứ ai ở trong làng.
Tôi nhún vai:
-Ai bảo mày vậy?
-Ông Hai Sắn bảo. Ổng bảo ông thường bắt gặp nó trò chuyện hàng giờ với các con vật.
Tôi vỗ vai Thục:
-Tao đã tận mắt thấy con Rùa nói chuyện với con ngỗng nhà nó.
-Đó! Anh thấy chưa? – Thục reo lên, giọng đắc thắng như thể điều tra viên vừa tóm được chứng cứ của tội phạm – Em đâu có bịa chuyện.
-Nhưng tao thấy chẳng có gì là không bình thường cả. Hôm nào mày thử nói chuyện với con ngỗng xem, biết đâu nó hiểu được tiếng mày. – Tôi đáp, giọng bỡn cợt. Bằng thái độ đó tôi muốn thằng Thục biết là tôi không đứng về phía nó.
Tôi cố ý bông đùa, nào ngờ Thục gật đầu:
-Em thử rồi.
-Mày thử rồi? – Tôi dựng mắt lên – Mày đã nói chuyện với con ngỗng nhà Rùa rồi hả?
-Dạ.
Thằng Thục làm tôi tò mò quá thể:
-Kết quả sao?
-Kết quả là nó rượt em và mổ vào mông em một phát bầm tím đến mấy ngày.
-Ha ha ha…
Tôi không muốn chế giễu thằng Thục nhưng tiếng cười vẫn cứ phát ra.
-Anh đừng cười nhạo em. – Thục sa sầm mặt – Em nói thật đó. Anh không nên chơi với con Rùa.
-Tao cứ chơi.
-Ông Hai Sắn còn bảo cứ vài ngày con Rùa lại vào rừng để làm chuyện mờ ám gì đó. Ông Bốn Lai cũng bảo thế.
-Chuyện mờ ám là chuyện gì?
Thục đột nhiên thấp giọng như sợ ai nghe lỏm:
-Có thể nó liên lạc với giặc cướp.
-Trong rừng có giặc cướp á?
Thục nhăn nhó, có vẻ không hài lòng về câu hỏi của tôi:
-Anh quên ba con Rùa chết là do rượt theo bọn cướp rồi sao. Sào huyệt của bọn chúng ở trong rừng chứ đâu.
-Ông Hai Sắn và ông Bốn Lai bảo thế à?
-Dạ.
-Mày tin mấy ông đó sao? – Tôi nheo một bên mắt, giọng đã bắt đâu bực bội.
-Tin chứ. – Thục gật đầu, phớt lờ vẻ mặt khó coi của tôi. – Họ đều là thợ săn, chuyện gì trong rừng mà họ chẳng biết. Ông Bốn Lai còn đề nghị thầy Điền cấm con Rùa ra khỏi nhà nữa kìa.
-Tao thì tao chẳng tin.
Tôi đá chân vào bánh xe sau:
-Trời tối rồi. Thôi, mày về đi kẻo mẹ mong.
Đợi thằng Thục chạy xe lên cầu treo, tôi quay mình lần về lối cũ.
Dĩ nhiên tôi không tin câu chuyện của mấy ông thợ săn, mặc dù tôi không hiểu tại sao họ lại bịa chuyện để nói xấu con Rùa.
Trời tối dần trên vai, và tôi vừa đi vừa sung sướng căng ngực hít thở mùi vị của buổi chiều. Như một loại trái cây, khi chín dần thành đêm, buổi chiều cũng tỏa ra hương thơm đặc biệt của nó, trong đó có mùi gió, mùi cỏ, mùi lá cây và phảng phất cả thứ hương mọc kín đáo đâu đây khiến cánh mũi tôi không ngớt phập phồng.
Tôi lại nghĩ đến con Rùa khi đá chân vào bụi mắc cỡ bên đường để thấy những chiếc lá khép lại như rèm mi dài của nó.
13
Tối đó, tôi không qua nhà con Rùa chơi như dự định. Vừa ăn cơm xong, trời đổ mưa ríu rít. Ngồi trong nhà nhìn ra, thấy mưa dày như vải mùng. Những hạt nước to rơi xuống sân bắn ngược trở lên tung tóe, tưởng như ông trời đang vãi thóc. Có lẽ đây là lượng nước hồi chiều những đám mây giữ lại giữa không trung, dành cho một trận mưa khác vào ngày khác. Nhưng tối ngủ quên, những đám mây lỡ tuột tay đánh rơi mưa xuống. Xưa nay những con mưa trái mùa bao giờ cũng đến từ những đám mây lơ đễnh.
Bé Loan ngồi thu lu bên cạnh tôi trên ngách cửa, nói:
-Chạy ra tắm đi anh!
-Trời tối thui à.
-Trời tối tắm mới thích.
-Nhưng lạnh lắm.
Tôi nói, bắt gặp mình xấu hổ. Hồi còn ở làng, tôi rất thích tắm mưa. Tôi không sợ lạnh, dù là ban ngày hay ban đêm. Mưa, với trẻ con nông thôn, bao giờ cũng kéo theo niềm vui, sự hân hoan và phấn khích. Cởi truồng, hoặc để nguyên quần áo nếu lớn lên tí nữa, chạy nhảy dưới mưa là niềm thích thú khó tả.
Tôi hỏi bé Loan, cố lảng đi đề tài tắm mưa:
-Em biết ông Hai Sắn, ông Bốn Lai không em?
-Biết. Em cũng biết cả ông Bảy Thành và chú Ngãi nữa.
-Bọn họ là thợ săn à?
-Dạ. Họ sống bằng nghề đi săn và bẫy thú.
-Nghe nói họ ghét chị Rùa lắm hả?
-Dạ.
-Tại sao vậy?
-Tại chị Rùa ghét họ.
Tôi nhớ ra con Rùa rất yêu các con vật. Tôi nhớ đến đám bạn của nó: con ngỗng, con sóc, con nai, con chim, con khỉ… Trong khi phường săn là kẻ thù của các con vật.
Theo lời bé Loan kể thì vào mùa thả diều năm ngoái, ông Hai Sắn bẫy được một con nai con. Con nai bị bẫy kẹp què giò. Con nai còn bé, lại rất đẹp, ông Hai Sắn không muốn xẻ thịt. Có người xúi ông đem vào phương Nam bán cho các sở thú. Nhưng con nai đang bị què, ông Hai Sắn chưa đem bán vội. Con Rùa bảo ông Hai Sắn nó có thể chữa lành cho con nai con. Nghe nó kể vanh vách tên các cây thuốc và công dụng từng loại, ông Hai Sắn tin ngay. Con Rùa đem con nai về nhà, nẹp chân và bó thuốc một thời gian, con vật lành thật. Nhưng con Rùa không trả con nai cho ông Hai Sắn mà lén thả ra. Nó bảo với ông Hai Sắn là nửa đêm con nai bứt dây bỏ chạy vô rừng, nó đuổi theo bắt lại nhưng không kịp. Ông Hai Sắn giận lắm, làm ầm ĩ suốt một tuần lễ liền.
Tôi hồi hộp theo dõi câu chuyện về con nai, nhưng đến đoạn cuối thì tôi cười ngất. Cái tên Tập Tễnh đổ chuông trong trí nhớ của tôi. Tôi nhớ con Rùa từng bảo nó hay đem theo cuốn Asterix và lưới hái vàng vào rừng để đọc cho con Tập Tễnh nghe.
Bây giờ thì tôi hiểu tại sao con Rùa hay vào rừng. Cùng chơi đùa với con nai con, đọc sách cho nó nghe là một chuyện. Điều quan trọng hơn là con Rùa tìm cách che giấu con Tập Tễnh khỏi mắt phường săn trong làng. Nếu con nai không tìm thấy đàn, hẳn nó phải ở xa lắm, trong một hang động bí mật nào đó mà trừ con Rùa ra không một ai tới được hoặc tìm thấy được.
Nhớ đến cuốn truyện tranh, tôi bất giác mỉm cười, nhận ra mình đang cảm động. Tôi không biết ông ngoại con Rùa qua đời đã bao lâu nhưng cái cách con Rùa giữ gìn cẩn thận cuốn truyện và đem ra đọc đi đọc lại chỉ mỗi đoạn mà nó biết khiến tôi thấy nao nao. Thực ra con Rùa không đọc, nó chỉ xem từng bức tranh và nhớ lại những gì ông nó kể. Những lúc như vậy, tôi đoán nó vừa xem sách vừa mường tượng lại gương mặt, giọng nói, dáng đi của ông nó và khi quay lại cuộn phim đó trong đầu hẳn nó bồi hồi lắm.
Tối đó tôi đi ngủ trong tiếng mưa mỗi lúc một thưa dần tuy thỉnh thoảng vẫn nghe vọng vào tai những âm thanh rào rào vọng lại từ phía hòn non bộ, tiếng của vô số những giọt nước trên cành cây sẩy tay té xuống mặt ao bèo khi một cơn gió tinh nghịch thổi qua.
14
Sáng hôm sau, cô Út Huệ đãi tôi món xôi đậu xanh chấm muối mè ngon đến điếc lưỡi..
Ăn xong, tôi cầm ly nước ngồi trước hiên lười nhác nhìn ra.
Chung quanh tôi, nhà cửa cây cối đều ướp nắng vàng. Sau khi được cơn mưa đêm tắm gội, lau chùi, mọi thứ càng như tỏa sáng.
Trên cành sầu đông trước ngõ đôi chèo bẻo chẳng biết đi đâu, chỉ thấy một con chiền chiện đang nghển chiếc cổ vàng hót chào bình minh.
Ở góc hàng rào, cây nắp ấm vừa nghe chim hót vừa đong đưa những bông hoa trong nắng mai theo cái cách người mẹ hiền đang sưởi ấm những đứa con bé bỏng, mặc dù đứa nào đứa nấy hình thù trông giống một bình rượu hơn là một đứa bé.
Ý nghĩ đó bất giác khiến tôi phì cười.
-Có gì vui vậy anh?
Tiếng con Rùa từ bên kia hàng giậu vọng sang khiến tôi ngoảnh đầu lại.
-À, có gì đâu em!
Nhìn gương mặt tươi cười của nó thấp thoáng sau bóng lá, tôi sực nhớ đến lời hứa của mình hôm qua:
-Em chờ anh chút nhé!
Tôi chạy vô nhà cất vội cái ly rồi phóng sang nhà nó:
-Em đưa cuốn truyện đây anh đọc cho em nghe.
Con Rùa đã thủ sẵn cuốn Asterix và lưới hái vàng trong vạt áo. Không đợi tôi nhắc đến lần thứ hai, nó lôi cuốn sách ra chìa vào mắt tôi:
-Nè anh!
Giống như hai ông tiên đánh cờ trên hòn non bộ, một phút sau tôi và con Rùa đã ngồi trên phiến đá xanh dưới nhánh cây bướm bạc chụm đầu vào trang sách lốm đốm bóng nắng.
-Ngoại em kể em nghe tới chỗ nào rồi? - Tôi hào hứng hỏi.
Trong sự yên lặng đầy đặn và ấm áp của buổi sáng thôn quê, tôi ngạc nhiên nghe giọng nói của mình vang vang đến mức tôi có cảm tưởng tôi vừa kề miệng vào tai tôi để thốt lên câu đó.
Con Rùa một tay cầm cuốn sách, tay kia lật tới trang có đánh dấu:
-Tới chỗ này nè anh.
Truyện Asterix và lưỡi hái vàng tôi đã đọc qua rồi nên nhìn vô các bức tranh tôi nhớ ra ngay đây là đoạn Obelix và Asterix bắt lão chủ quán Arvene dẫn đi tìm Amerix, người chuyên sản xuất lưỡi hái vàng cho các pháp sư.
Tôi chỉ vào bức tranh lão Arvene ria rậm đang đánh xe bò xuôi dốc bị Obelix chặn lại, gật gù:
-Lúc này Obelix và Asterix đang chặn đường lão Arvene.
-Obelix á?
-Ừ, Obelix và Asterix là một đôi bạn. Em cũng biết rồi mà, họ sống ở làng Gaulois…
-Không phải đâu anh! – Con Rùa lắc đầu nguầy nguậy – Đây là làng Đo Đo hồi xưa.
Nó chỉ tay vào nhân vật Obelix đang khuân tảng đá to tướng sau lưng:
-Đây là bác Bụng Bự. Bác làm nghề đục đá trên núi Phụng Sơn…
Tới lượt tôi ngơ ngác:
-Bác Bụng Bự ư? Ai bảo em thế?
-Ngoại em kể thế mà. – Con Rùa chớp đôi rèm mi dài – Ngoại em bảo hồi xưa người Pháp đến nước mình truyền đạo. Họ đi khắp nơi, và khi đến làng Đo Đo họ nghe dân làng kể chuyện bác Bụng Bự và bác Ria Vàng đi bắt bọn cướp, họ thích quá nên về viết ra cuốn truyện này.
Bác Ria Vàng theo như tay chỉ của con Rùa là nhân vật Asterix. Thoạt đầu tôi ngớ ra, nhưng nghe thêm một hồi tôi dần dần hiểu ra ông ngoại của con Rùa không hề biết tiếng Pháp. Ông nhìn vào các bức tranh và tưởng tượng ra một câu chuyện hoàn toàn khác để thỏa mãn yêu cầu của đứa cháu bé bỏng là con Rùa.
-Không phải đâu em. Câu chuyện người ta kể trong sách là như thế này…
Tôi hắng giọng nói, rồi chỉ tay vào trang đầu tiên tôi bảo với con Rùa rằng đây là ngôi làng Gaulois ở bên nước Pháp. Khi câu chuyện bắt đầu thì dân làng đang vui chơi thanh bình: Asterix kể chuyện săn bắn, Obelix đẽo đá, Tourix dạy bọn trẻ làng… Bỗng nhiên mọi người nghe tiếng thét của pháp sư Panoramix vọng tới. Khi dân lang chạy lại thì thấy Panoramix đang đeo lủng lẳng trên cây sồi. Thầy vừa làm gãy chiếc liềm vàng chuyên dùng hái lá để chế tạo thuốc tăng sức mạnh. Đại hội pháp sư sắp tổ chức mà không chế được thần dược, thầy Panoramix xem như nắm chắc phần thất bại. Vì vậy, Asterix và Obelix lên đường đi đến Lutèce để tìm nhà buôn Amerix, người chuyên sản xuất lưỡi liềm vàng…
-Không phải đâu anh. – Con Rùa lên tiếng phản đối, cái cách nó lúc lắc mái tóc cháy nắng như thể tôi vừa nói điều gì ngớ ngẩn – Người đang bị bọn cướp treo lên cây là bác Bông Gòn. Bác Bông Gòn cao tuổi nhất làng, là người duy nhất biết kho báu của nhà vua chôn giấu ở chỗ nào.
-Thế còn cây liềm trong tay… - Tôi cố vặn vẹo, đã bắt đầu ngập ngừng trước gương mặt đang bừng bừng của con Rùa.
-Đó là vũ khí của bác Bông Gòn mà anh. – Con Rùa ngước hai giọt nước long lanh nhìn tôi, có vẻ ngạc nhiên tại sao tôi lại không hiểu một điều đơn giản như vậy – Bác dùng chiếc liềm chống lại bọn cướp nhưng bọn chúng đã đánh gẫy chiếc liềm của bác. Và do bác nhất định không hé môi về kho báu, bác đã bị bọn chúng treo lên cây…
Mặt trời lúc này đã lên cao, nắng dày hơn bắt đầu sưởi ấm hai đứa tôi và những trang sách. Tôi nhìn tia nắng xuyên qua những chiếc lá bướm bạc đang nhảy nhót trên má con Rùa, cảm thấy không nên tranh cãi với nó nữa. Ông nó đã phả tình yêu làng mạc quê xứ vào từng trang truyện của Rene Goscinny đậm đà đến mức con Rùa không thể chấp nhận một ngôi làng nào khác ngoài làng Đo Đo của nó (và cả của tôi) là địa điểm được nhắc tới trong truyện.
-Nếu đó là làng Đo Đo tại sao nhân vật trong truyện toàn mắt xanh mũi lõ? – Tôi vét hết hy vọng, hỏi một câu vớt vát.
-Họa sĩ phải vẽ như thế để trẻ em xứ họ dễ xem mà anh.
Con Rùa giải thích một cách giản dị.
Và đó cũng là câu hỏi cuối cùng tôi hỏi con Rùa trong buổi sáng đầy nắng đó.
Sau đó tôi không còn gì để hỏi nữa, vì tôi biết nếu cố bắt bẻ con Rùa tôi sẽ là người thất bại.
Tôi đành phải làm cái chuyện bất đắc dĩ là chấp nhận chân lý đứng về phía ông ngoại con Rùa, càng khó khăn hơn nữa khi tôi phải kể tiếp cho nó nghe câu chuyện dở dang mà ông nó để lại như một gánh nặng đối với tôi.
15
Tôi nhìn những bóng nắng run rẩy trên trên sách vừa học cách tưởng tượng, một điều không đơn giản khi câu chuyện về Asterix đã in sâu trong tâm trí tôi như những luống cày trên cánh đồng ký ức.
Tôi vểnh tai nghe con Rùa kể lại câu chuyện về ngôi làng Đo Đo không bình yên, về các nhân vật Bụng Bự, Ria Vàng, Bông Gòn, cố để cho đầu óc làm quen với ý nghĩ rằng Asterix, Obelix, Panoramix chính là hóa thân của những chàng dũng sĩ can trường trong ngôi làng nhỏ luôn phảng phất mùi dạ lý hương khi chiều xuống.
-Ờ, anh hiểu rồi. Đây là đoạn kể về bác Bụng Bự và bác Ria Vàng chặn đường lão đánh xe bò để hỏi về chỗ trú ngụ của bọn cướp… - Cuối cùng, tôi gật đầu nói, bằng giọng của người đang cố chống lại chính mình, có chút gì ngượng nghịu trong cách phát âm.
Con Rùa xích sát vào tôi lúc nào không hay, mê mẩn nghe tôi bịa chuyện.
Cho đến khi tảng đá dưới mông tôi bắt đầu nóng lên vì trời đã vào trưa thì tôi kể cho con Rùa được một đoạn khá dài và quả tình tôi rất lấy làm ngạc nhiên về óc tưởng tượng của mình.
Câu chuyện bịa của tôi càng lúc càng trôi chảy, đến mức có một lúc tôi có cảm tưởng cuốn truyện tranh trên tay tôi đúng là kể về ngôi làng Đo Đo thật và những Asterix, Obeliix đúng là Ria Vàng, Bụng Bự thật.
Con Rùa ngồi bên cạnh chốc chốc lại xuýt xoa:
-Hay quá!
-Hồi hộp ghê!
Những tiếng tấm tắc của nó như một thứ gia vị nêm vào câu chuyện giúp cho lời kể của tôi thêm đậm đà và trí tưởng tượng của tôi thêm bay bổng.
Thằng Thục xuất hiện ngay vào lúc tôi và con Rùa chuẩn bị rời đi chỗ khác vì tảng đá hai đứa tôi ngồi đã nóng đến mức có thể thui chín chúng tôi trong mười lăm phút nữa.
Thục vẹt rào giậu thò đầu qua, nhưng nó không nhìn tôi.
-Chết mày rồi, Rùa! – Thục hắng giọng – Ông Bảy Thành đang đi tìm mày kìa!
-Ổng tìm tao làm chi?
-Làm chi thì lát nữa gặp ổng mày sẽ biết!
Ông Bảy Thành xuất hiện trước ngõ nhà con Rùa không lâu sau đó.
-Con Rùa đâu rồi? Mày ra đây tao bảo!
Một giọng gầm ghè, hơi khàn khàn đập vào tai tôi. Gần như ngay sau tiếng quát, một người đàn ông cao gầy bước vào sân, trên tay đang cầm cây súng kíp. Chòm râu dưới cằm ông dày đến mức tưởng như râu giả mới được ông gắn vào trước đó ít phút trong khi đầu ông thì hoàn toàn ngược lại: chỉ có mớ tóc loe hoe bám sau ót, nửa đầu phía trước trơn bóng tạo cảm giác ông đang sở hữu một cái trán lớn gấp đôi người bình thường. Mũi ông hơi khoằm và chính chi tiết này khiến ông giống một cách kỳ lạ với pháp sư Panoramix trong truyện Asterix. Nếu tóc và râu của ông đem nhuộm trắng đi thì ông đúng là pháp sư Bông Gòn theo cách nói của con Rùa.
Trong khi tôi chằm chằm nhìn người thợ săn, sự lo lắng mỗi lúc một dâng lên khiến bụng tôi cứ quặn lại từng chặp, con Rùa nhìn người mới đến, thản nhiên hỏi:
-Con nè. Có chuyện gì vậy chú Bảy?
-Mày đừng có giả vờ, tao đập mày bây giờ! – Mặt ông Bảy Thành đỏ phừng phừng khi nhìn thấy con Rùa đứng lên khỏi phiến đá xanh. Ông giơ báng súng lên khỏi đầu vẻ đe dọa.
Con Rùa ngước nhìn cây súng của người thợ săn, ánh mắt nó lướt qua cái báng gỗ rồi rớt xuống gương mặt đỏ như hơ lửa kia, ngơ ngác:
-Sao tự nhiên chú đòi đánh con?
Chòm râu dưới cằm ông Bảy Thành gần như dựng lên:
-Tối hôm qua mày lẻn vô nhà tao phá phách phải không?
-Tối hôm qua trời mưa con đâu có ra khỏi nhà. – Con Rùa đáp bằng giọng nếu nó có làm chuyện đó thì trời sẽ sập xuống đầu nó ngay lập tức.
Bà nội con Rùa nghe ồn, lẹp kẹp bước ra hiên, chiếc khăn trầu còn nhét hờ nơi mép túi, chắc bà vừa phun bã trầu vô ống nhổ. Nhác thấy ông Bảy Thành, bà chưa kịp lên tiếng, người thợ săn đã nghiến răng:
-Bác xem đứa cháu quý hóa của bác nè. Tối qua nó lẻn vô nhà tôi đổ nước vào túi thuốc nhồi ước hết trơn.
Bà nội con Rùa ngập ngừng:
-Có phải nó không, chú?
Con Rùa giậm giậm chân trên nền đất:
-Không phải con! Không phải con mà!
Thằng Thục lúc này đã đến bên cạnh tôi. Nó kề miệng vào tai tôi, nói nhỏ:
-Nó chứ ai!
Ông Bảy Thành lắc cây súng trên tay, tay kia xoa lên chiếc mũi khoằn như để nén giận, giọng hăm he:
-Đây không phải là lần đầu tiên nghe Rùa. Hôm nào tao mà bắt quả tang được, mày đừng có trách tao.
Trước khi đùng đùng bỏ đi, ông Bảy Thành tức tối giáng cây súng kíp lên hòn non bộ, trúng ngay con gà bằng đất nung làm con gà văng tuốt vô hàng rào.
Có lẽ đây không phải là lần đầu những người thợ săn trong làng đến hỏi tội con Rùa. Tôi đoán vậy khi thấy con Rùa lẫn bà nó không ai có biểu lộ gì cho thấy họ bị bất ngờ trước hành vi lỗ mãng của ông Bảy Thành.
Con Rùa lúc này đang lấm lét nhìn bà nó, tay vẫn cầm cuốn truyện tranh Asterix.
Trong khi tôi đứng đực tại chỗ, không biết phải làm gì hay nói gì, thằng Thục đã kịp khều nhẹ lên cánh tay tôi:
-Về đi anh!
16
Trưa đó, thằng Thục rủ tôi về nhà thím Lê nhưng tôi lắc đầu:
-Tao không về đâu.
-Anh về đi lượm nắp keng với em. – Thục vừa nói vừa lay cánh tay tôi.
Tôi nhún vai:
-Mày muốn xuống chợ Kế Xuyên thì tao chở mày đi. Nhưng đi xong, tao về lại nhà cô Út Huệ.
Mặt thằng Thục xịu xuống:
-Anh không thích chơi với em nữa hả?
-Sao mày nói vậy? Lúc nào tao chẳng thích chơi với mày!
-Anh thích chơi với con Rùa thì có.
Tôi khựng lại mất ba mươi giây sau nhận xét của Thục. Tôi bối rối ngoảnh đầu ra sân nắng, đưa mặt nhìn những bông hoa nắp ấm đong đưa cạnh hàng rào, liếm môi đáp:
-Tại mày không biết đó thôi. Tao đang hứa với con Rùa một chuyện, tao phải ở lại đây làm cho xong.
-Anh hứa với nó chuyện gì vậy?
Tôi khụt khịt mũi:
-Khi nào làm xong tao sẽ kể cho mày nghe.
Tôi không nói với Thục tôi đang phải đọc cuốn Asterix để kể cho con Rùa nghe hết câu chuyện tưởng tượng về làng Đo Đo ngày xưa. Tôi sợ thằng Thục đòi nghe ké.
Không chỉ giấu thằng Thục, tôi cũng không nói chuyện đó với cả bé Loan. Tôi không bao giờ tự hỏi tại sao tôi làm vậy. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu ra khi ở bên cạnh con Rùa, tôi không muốn bất cứ ai phá hỏng bầu không khí êm ái vây quanh hai đứa tôi.
Bữa đó, thằng Thục ở lại chơi với tôi và bé Loan đến khi trời lưng lửng chiều. Nó không rủ tôi đi lượm nắp keng nữa. Nó lấy hai hột xoài bé Loan phơi khô để dành trong ngăn tủ ra ngồi giữa nhà loay hoay làm cối xay cho con bé.
Trong khi bé Loan lục lọi nhà kho kiếm mấy sợi chỉ to, loại chỉ dùng để may miệng bao tải, tôi xuống nhà bếp đánh cắp của cô Út Huệ một chiếc đũa tre để làm trục cối xay.
Hai anh em đóng đóng gõ gõ một hồi đã làm được cái cối xay hột xoài rất đẹp. Trong chuyện này, tôi phải công nhận thằng Thục rất khéo tay. Cái cối xay của nó không chênh, không lắc, không nhảy chồm chồm. Bé Loan cầm sợi chỉ kéo tới kéo lui, hột xoài nằm ngang phía trên vẫn chạy êm ru.
Bé Loan là đứa ham chơi mau chán. Nó chơi một hồi, liệng cái cối xay cho thằng Thục, rồi chạy ra sau hè nhặt một miếng kính vỡ. Xong, nó đứng ngoài sân nắng, ngọ nguậy miếng kính trên tay, hào hứng chiếu những đốm sáng vào nhà. Những đốm sáng sau khi nhảy nhót lung tung trên vách, trên tủ, trên bàn ghế, bắt đầu rọi vào mặt tôi và mặt thằng Thục.
Lần đầu tôi và thằng Thục nhe răng cười, một lát thấy bé Loan chơi dai nhách, ánh sáng chói chang cứ chiếu thẳng vào mặt hai đứa tôi hàng buổi, Thục nổi cáu:
-Mày có thôi đi không, Loan! Mày còn rọi vô mắt tao lần nữa là tao về à.
Thục về thật. Khi bé Loan không thèm nghe lời, tay vẫn xoay miếng kính để điều khiển đốm sáng rọi trúng mục tiêu là mặt thằng anh họ nó, Thục đùng đùng bò ra khỏi nhà, nhảy lên xe đạp chạy thẳng. Nó chạy nhanh đến mức tôi chỉ kịp kêu “ơ”, nó đã mất dạng sau cây sầu đông trước ngõ.
Tôi rầy bé Loan:
-Em đùa dai thật đó!
Bé Loan cười hì hì:
-Ai bảo anh Thục cứ rủ anh về xóm dưới, không cho anh ở lại đây chơi với chị Rùa.
Bé Loan là con nhóc mười tuổi ngây thơ, nhưng lém lỉnh không ai bì. Câu nói của nó quét lên mặt tôi một thứ màu giông giống màu gạch cua. Tôi định nói với nó tôi ở lại nhà cô Út Huệ còn vì tôi thích chơi với nó nữa nhưng cuối cùng tôi làm thinh vì tôi thấy sự thanh minh đó giả tạo quá.
Tôi ở nhà cô Út Huệ gần hai ngày nhưng chẳng chơi với bé Loan được bao nhiêu, chỉ toàn la cà với con Rùa.
17
Chiều hôm đó, tôi phát hiện con Rùa chưa từng đọc cuốn sách nào khác ngoài cuốn Asterix và lưỡi liềm vàng ông ngoại nó để lại. Đó là cuốn sách duy nhất mà nó có.
Hồi bé tôi cũng thế. Cho tới lúc rời làng vào năm tám tuổi, tôi chưa từng đọc một cuốn sách nào.
Không chỉ ở làng, ngay cả thị trấn Hà Lam cũng không hề có nhà sách. Hồi chú Thảo còn sống, thỉnh thoảng chú mượn được của ai đó một cuốn truyện. Chú đọc và sung sướng kể cho tôi nghe từng đoạn ngắn vào những buổi trưa hai chú cháu nằm bên nhau trên chiếc phản rộng ghép bằng bốn miếng ván để chờ giấc ngủ kéo đến.
Tôi hỏi con Rùa:
-Thế em kể cho con Tập Tễnh nghe đi nghe lại mãi một chuyện a?
-Dạ.
Tôi gật gù:
-Anh sẽ kể cho em nghe thêm nhiều chuyện mới. Rồi em kể lại với con Tập Tễnh. Có vô số chuyện hay ở trong sách.
-Anh kẻ em nghe bây giờ đi! – Con Rùa chớp mắt, háo hức giục.
Trong mười năm sống ở Sài Gòn, tôi đọc được rất nhiều truyện hay. Và tôi chọn cuốn Tâm hồn cao thượng của Admond de Amicis để kể cho cô bạn mới. Tâm hồn cao thượng là cuốn sách tôi rất thích, nhưng điều khiến tôi chọn cuốn này là do nó gồm những mẩu chuyện ngăn ngắn, rất dễ dàng kể lại.
Dưới bóng lá của cây bướm bạc, vẫn trên phiến đá xanh bây giờ đã dịu mát khi mặt trời trượt rất dài xuống khỏi đỉnh và sắp chạm ngọn đồi phía tây, tôi từ tốn kể cho con Rùa nghe về cậu bé thành Padova và cố dằn lòng để không buột miệng thắc mắc rằng có phải nó đã lẻn vào nhà ông Bảy Thành để làm hỏng túi thuốc nhồi của người thợ săn vào tối hôm qua hay không.
Tôi không hỏi, vì tôi biết nếu cần nói thì con Rùa sẽ tự động dốc bầu tâm sự, còn một khi nó đã lờ đi chuyện đó có nghĩa là nó không thích ai chạm vào những dây tơ bí mật trong lòng nó làm vang lên những âm thanh mà nó muốn giấu kín đằng sau vẻ ngoài bình thản kia.
Trong khi con Rùa luôn miệng xuýt xao khi nghe tới chỗ cậu bé lang thang xứ Padova ném trả những đồng tiền vàng vào mặt những người nói xấu đất nước cậu, tôi vẫn không ngớt nghĩ tới cơn giận dữ của ông Bảy Thành, và sở dĩ tôi cứ băn khoăn mãi chuyện đó là vì tôi rất lo cho con Rùa.
Tôi sợ rằng nếu nó cứ quậy phá như thế một ngày nào đó nó sẽ bị bắt quả tang, và lúc đó không biết điều gì sẽ xảy ra với nó.
Tôi lo vẩn vơ thế thôi, lòng chỉ mong mai mốt tôi rời khỏi làng con Rùa ở lại bình yên vô sự bởi vì tôi nhận ra tôi đã vô cùng yêu mến nhó. Tôi cũng cảm nhận được sự cô độc của con Rùa và điều đó không khỏi khiến tôi chạnh lòng trong rất nhiều ngày. Đúng như thằng Thục nói, con Rùa hầu như không có bạn. Những đứa cùng tuổi với nó thì học hơn nó quá xa, hai bên không có cùng mối quan tâm về bài vở, cũng không thể chia sẻ những kỷ niệm trường lớp. Ngược lại, những đứa học cùng lớp với nó ở trường làng lại quá nhỏ, con Rùa không thích hợp để chơi những trò trẻ con với đám bạn lóc nhóc của mình. Bé Loan rất quý con Rùa, lúc nào cũng bênh vực “chị Rùa” chằm chặp nhưng trừ hôm nó nói chuyện với con Rùa qua ống lon, tôi không thấy nó chạy qua chơi với con Rùa bao giờ.
Dĩ nhiên con Rùa cũng có bạn bè theo kiểu của nó: con Cổ Dài suốt ngày lùng sục kiếm ăn bên ao rau muống, thằng Đuôi Dài khoái trò trèo lên tuột xuống cây dừa sau vườn, con Đít Đỏ hay đứng rỉa cánh trên ngọn tre trước ngõ khi nắng bắt đầu lên, và những con vật khác trong rừng. Nhưng lũ bạn đó có làm cho con Rùa bớt cảm giác lẻ loi hay không thì tôi không biết, tôi chỉ thấy dậy trên lòng nỗi lo lắng mơ hồ. Tôi sợ rằng vì chở che cho đám bạn của mình, con Rùa đã gây thù chuốc oán với phường săn trong làng và rất có thể một ngày nào đó nó sẽ rơi vào tình cảnh rắc rối.
Khi nơm nớp như vậy, tôi không ngỡ viễn ảnh đó xảy ra sớm hơn tôi tưởng.
18
Mọi chuyện bắt đầu từ chuyến đi rừng ba ngày sau khi tôi kể cho con Rùa nghe những mẩu chuyện trong cuốn Tâm hồn cao thượng.
Tôi chưa từng thấy người nào nghe chuyện say sưa như con Rùa. Con Rùa không chỉ nghe bằng tai. Nó nghĩ bằng cả mắt lẫn miệng, bằng cả tay chân điệu bộ, với vẻ sung sướng rạng ngời tưởng như có thể sờ thấy được. Nói tóm lại khi nghe chuyện tâm hồn con Rùa dường như đặt hết vào từng câu chữ chảy ra từ miệng tôi, trông nó như kẻ đói đang rình một món ăn.
Hôm đó, sau khi nghe tôi kể về chú lính đánh trống người đảo Sardegna, con Rùa vùng bảo:
-Ngày mai mình vào rừng chơi đi anh!
-Vào rừng á? – Tôi ngạc nhiên hỏi lại, không hiểu tại sao đang mải mê hóng chuyện, nó lại nghĩ đến chuyện vào rừng.
-Ừ, vào rừng em kể những chuyện này cho con Tập Tễnh nghe. – Con Rùa hào hứng – Lâu nay em bắt nó nghe đi nghe lại mỗi chuyện về bác Bụng Bự và bác Ria Vàng, tội nó quá!
Tất nhiên tôi không tin con Tập Tễnh có thể phân biệt được chuyện mới với chuyện cũ, thậm chí tôi không nghĩ một con nai có thể nghe chuyện nhưng tôi không phản đối đề nghị của con Rùa.
Tôi muốn đi vào rừng một phần vì chúng tôi đã bỏ dở một chuyến đi như thế cách đây mấy ngày do trời đột ngột đổ mưa lớn, nhưng quan trọng hơn tôi muốn sau chuyến đi này tôi sẽ chứng minh cho thằng Thục thấy rằng con Rùa vào rừng không phải để liên lạc với giặc cướp hay làm chuyện gì mờ ám như cánh thợ săn rêu rao.
Tôi và con Rùa ra đi vào lúc mặt trời vừa lên ngang ngọn tre. Nó bảo đi buổi sáng rùi gặp mưa bất chợt, hai đứa tôi có thể chui vào các “ngôi nhà” rải rác dọc đường chờ tạnh mưa rồi đi tiếp, không phải quay về như hôm trước. Nó dặn tôi đem theo một ổ bánh mì nhưng nhà cô Út Huệ không có bánh mì nên tôi lận theo người một nắm xôi đậu phộng ép trong mo cau. Con Rùa khoe tôi mấy củ khoai lang luộc bỏ trong túi, bảo:
-Trong rừng có nhiều thứ ăn được nhưng mình cứ đem theo cho yên tâm.
Theo con đường hôm trước chạy dọc giữa các bụi duối dại, hai đứa tôi đi mãi về phía tây.
Từ xa tôi đã có thể nhìn thấy cánh rừng bắt đầu từ con hẻm luồn giữa những ngòn đồi rợp lá xanh. Những thân cây gần nhất có màu xanh, nhưng tôi không thể nói như thế về những cây cối nằm sâu trong rừng. Ở quãng giữa, rừng như phát sáng, những hàng cây trông giống những ngọn nến trắng, tôi thấy có khói màu xanh lơ bốc lên.
Khi bắt đầu đặt chêân qua cửa rừng, con Rùa hỏi tôi:
-Anh mỏi chân không?
-Không.
-Đi xa lắm đó.
Tôi không sợ đi xa, tôi chỉ sợ rắn rết hùm beo.
Tôi chép miệng:
-Anh không sợ đi xa.
Con Rùa cười, nói tiếp ý nghĩ trong đầu tôi:
-Trong này không có cọp. Khu rừng làng mình toàn những con thú hiền.
Không khí trong rừng hoàn toàn khác bên ngoài khiến tôi có cảm giác vừa bước vào một nơi rất xa thế giới tôi đang sống. Những hơi mát dễ chịu ngấm vào da tôi, dù chúng tôi vừa băng qua một khoảng rừng thưa đầy nắng.
Bên những loại cây tôi không biết tên, thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp những cây duối dại, những cây dừa hoang mọc rải rác khắp sườn đồi. Những loại cây quen thuộc này tạo cảm giác tôi vẫn chưa cách ly hẳn với thế giới bên ngoài và điều đó giúp lòng tôi yên tâm được một chút.
Càng đi sâu, rừng càng dày. Tới một lúc, lá trên đầu tôi bắt đầu kết thành vòm và tôi thích thú một cách sợ hãi khi chốc chốc lại phát hiện những thân cây có hình thù cổ quái.
Con Rùa dẫn tôi đi theo con đường mòn do những người thợ săn và những người hái củi vạch ra trên cỏ có lẽ từ lâu lắm, nhưng lối đi đó càng xa càng mờ dần và tới một lúc tôi không còn nhìn thấy nữa. Trước mặt tôi con Rùa vẫn tiếp tục rảo bước, không hề bối rối mảy may, như thể đã có sẵn lối đi trong đầu nó.
Tôi sải chân thật nhanh, cố bám sát con Rùa. Nắng lên cao nhưng tôi bắt đầu thấy lạnh. Cái lạnh của sương dâng lên là là mặt cỏ, của bóng lá mỗi lúc một ken dày, của cả nỗi sợ mơ hồ từ trái tim tôi tỏa ra.
Đây là lần đầu tiên tôi vào rừng, dù tôi đã sống cạnh khu rừng này suốt tám năm tuổi thơ. Ngay từ bé tâm trí tôi đã chất đầy những lời người lớn hù dọa, vì thế với tôi rừng luôn gắn với những gì nguy hiểm, độc địa, chết chóc. Rừng có rắn rết, có những con trăn lớn, có cọp beo. Và có những con ma. Những con ma nhảy nhót bên cạnh những con quỷ rừng.
Ngay chú Thảo cũng nói với tôi như thế. Chú bảo “Con không nên vào rừng”. Lúc đe tôi câu đó, giọng chú giống như thể nếu tôi không nghe lời chú tôi sẽ không bao giờ có dịp thấy ánh sáng mặt trời nữa.
Bây giờ chú Thảo đã mất và tôi đang ở trong rừng. Lời hăm dọa của chú năm nào hiện ra trong tâm trí khiến tôi vội vàng cúi xuống nhặt một cành cây cầm trong tay.
Con Rùa hỏi, như thể nó có mắt sau gáy:
-Anh muốn chống gậy rồi hả?
-Ờ.
Tôi đáp, thà để con Rùa tưởng tôi mỏi chân còn hơn để nó biết tôi nhát gan.
-Gần tới rồi đó anh.
Con Rùa trấn an tôi, và tôi thấy rõ nó cố tình đi chậm lại.
Một con sóc xám với chiếc đuôi thật đẹp hiện ra ngay khúc quanh. Tôi chưa từng thấy con sóc nào có cái đuôi to như vậy. Khi chạy trên cỏ, cái đuôi của nó không ngừng nảy lên đập xuống như thể nó đang kéo theo một quả bóng bằng bông. Nó chạy vài bước qua phải, vài bước qua trái, rồi dừng lại bên gốc cây thông non giương mắt nhìn hai đứa tôi, không chút sợ hãi. Chỉ đến khi tôi và con Rùa đến thật gần, nó mới chạy vào nấp dưới đám lá kim thò đầu ngó ra.
-Luẩn quẩn ở đây có ngày chết đấy, nhóc. – Con Rùa nói với con sóc xám – Đi theo chị qua bên kia cho an toàn.
Tôi nghĩ con Rùa chỉ thuận miệng nói chơi, nó sợ con sóc gặp phải cánh thợ săn. Tôi cũng không tin con sóc hiểu được đề nghị của con Rùa, mặc dù tôi từng chứng kiến nó nói chuyện với con ngỗng trong vườn nhà nó. Niềm tin trong lòng tôi càng được củng cố khi hai đứa tôi đi một quãng xa, con sóc vẫn chẳng buồn nhúc nhích.
Nhưng rồi, bất chợt tôi nghe có tiếng xào xạc phía sau lưng. Tôi ngoảnh lại, sửng sốt thấy con sóc xám đang lúp xúp đuổi theo hai đứa tôi. Nó chạy từng quãng ngắn, thoáng chút ngại ngần, nhưng xem ra rất quyết tâm. Có lẽ sự hiện diện của tôi bên cạnh con Rùa làm nó cảnh giác.
Con Rùa vẫn điềm nhiên đi tới, trong khi tôi không ngăn được mình cứ chốc chốc lại ngoái đầu ra sau để ngạc nhiên phát hiện đằng sau con sóc bây giờ có thêm một con chồn lẽo đẽo theo đuôi.
Con chồn đi những bước rụt rè, chiếc đuôi dài quét đất làm vang lên những tiếng sột soạt mỗi khi băng qua một đám lá khô. Từ xa tôi thỉnh thoảng lại thấy hai vành tai mỏng của nó ửng lên khi có những tia sáng bất chợt rọi qua.
Có lẽ đây là đám bạn của con Rùa, tôi nhủ bụng. Hôm trước nó khoe tôi nó có rất nhiều bạn ở trong rừng. Dĩ nhiên là tôi tin những gì con Rùa nói nhưng lúc đó tôi vẫn chưa hình dung được. Khung cảnh trước mắt vì vậy khiến tôi vô cùng bỡ ngỡ nhưng sau đó thì chợt nhớ ra các con vật có trực giác rất nhạy. Chỉ qua vài lần tiếp xúc chúng biết ngay ai là bạn bè ai là kẻ thù và chúng có cách riêng để truyền tín hiệu cho nhau.
Tôi ngắm hai con thú hoang đang rón rén bám theo sau lưng, thầm đoán nhiều con vật khác có lẽ cũng đang nấp đâu đó trong các bụi rậm quan sát chúng tôi qua kẽ lá. Hôm nay nếu không có tôi, chắc chúng đã úa ra tung tăng trên cỏ.
Trước mặt tôi, con Rùa vẫn đều đặn rảo bước, không một lần quay đầu lại. Tôi nghĩ có lẽ nó không lạ gì chuyện các con vật chạy ra chơi với nó mỗi khi nó vào rừng nhưng đến khi có thêm hai con nhím nhập bọn thì tôi không làm thinh được nữa. Tôi sải chân nhanh về phía trước, rối rít:
-Em nhìn phía sau xem kìa!
Con Rùa hơi nghiêng mình để có thể nhìn đám thú qua vai, mỉm cười:
-Em biết rồi. Tụi nó theo em đi lánh nạn đó.
Tôi biết con Rùa định dẫn đám thú nhỏ tránh xa những chiếc bẫy và những phát súng của phường săn.
Trong khi tôi định mở miệng hỏi nó định dẫn đám thú (cả tôi nữa) đi đâu thì tai tôi đột ngột vểnh lên.
Có tiếng nước róc rách ở đằng trước vẳng tới
19
Trước khi con thác hiện ra, theo như con Rùa nói là sau năm phút nữa, một con khỉ đeo mình trên cành xà cừ bên tay phải phát ra những tiếng chí chóe khiến tôi và con Rùa lật đật lia mắt nhìn.
-Thằng Miếng Vá!
Con Rùa buột miệng, không phải để gọi con khỉ mà để giới thiệu với tôi. Tôi hiểu ngay đây là con khỉ thỉnh thoảng vẫn chạy vào làng chơi với con Rùa. Thằng Miếng Vá, giống như cái tên mà con Rùa đặt cho nó, có một chỏm tóc màu đen ngộ nghĩnh ở chính giữa trán trông như một đứa bé để tóc trái đào. Trên hai gò má nó cũng có hai vệt đen giống như vừa bị ai chơi nghịch trét lọ nồi.
Thằng Miếng Vá sau khi cất tiếng kêu liền trèo thoăn thoắt lên ngọn cây, thoáng chốc đã biến mất sau đám lá xà cừ xanh. Chỉ đến khi các cành cây rung lên tôi mới biết nó vừa quăng mình qua ngọn trắc bế kế bên.
Khi con Rùa tiếp tục rảo bước thì tôi hiểu ra con khỉ con đang láu táu giành nhiệm vụ dẫn đường. Đó là cách để con khỉ háo thắng thể hiện mình, vì nếu không nó cứ sau một cú quăng mình lại dừng lại chờ đợi để hãnh diện thực hiện một cú quăng mình tiếp theo, con Rùa vẫn đi đúng con đường vạch sẵn trong đầu nó kể từ khi chúng tôi đặt chân vào bìa rừng.
Tiếng nước reo mỗi lúc một lớn và khi thằng Miếng Vá dừng lại, tôi thấy có thêm hai con khỉ khác đang ngồi trên tảng đá dưới chân ngọn thác vừa hiện ra sau khúc ngoặt. Hai con khỉ này lớn hơn, có lẽ là khỉ anh chị hay khỉ bố mẹ, cũng có chỏm lông dày ở giữa trán như thằng Miếng Vá, chỉ khác là chỏm tóc này màu vàng. Khi con khỉ to nhất chớp mắt nhìn tôi và con Rùa, tôi thấy mi mắt nó có màu trắng như vừa được tô bằng cây bút chì bạc.
Thác không cao, nhưng màn nước giống như một miếng voan trắng phủ kín sườn đồi lởm chởm những bụi cây thấp, ở vài chỗ lá nhúng cả xuống mặt nước.
-Tới rồi đó anh.
Con Rùa nói, ngoảnh cổ không phải để nhìn tôi mà để quan sát đám thú nhỏ phía sau lưng tôi.
Tôi đưa mắt nhìn nước từ đỉnh thác lao xuống vùng xoáy tạo nên một núi bọt trắng xóa, những đợt sóng ngắn và những vòng tròn lao ra bốn phía, tai ngập trong một thứ âm thanh rộn rã, hoang sơ nhưng vô cùng dễ chịu.
-Em dẫn tụi nó đi tắm hả?
Tôi hỏi con Rùa, không nghĩ là mình hỏi trêu.
Như để trả lời thắc mắc của tôi, ba con khỉ đứng lên khỏi tảng đá cạnh chân thác, nối đuôi nhau trèo qua những mô đất dọc triền đồi, chân bám trên những bụi cây, men dần về phía bức màn nước.
-Đi anh! - Con Rùa vừa nói vừa bước ra phía sau cúi xuống ẵm một con nhím lên tay.
-Đi đâu?
-Chui qua bên kia. – Con Rùa hất đâu về phía ngọn thác – Có một lối đi nằm ngay sau thác nước.
Trước bộ mặt ngơ ngác của tôi, con Rùa nói tiếp:
-Anh ẵm con nhím kia giùm em đi!
Con nhím khi xù lông như một quả cầu gai nhưng lúc tôi bế nó trên tay, lông nó rạp xuống như những ngọn giáo được xếp gọn gàng, dù vậy tôi vẫn cố cẩn thận hết mức để tránh bị các mũi nhọn vô tình đâm vào tay.
Một tay ôm con nhím, tay kia bám vào những cành lá đong đưa trên đầu, tôi thận trọng đặt chân lên những mô đất và những bụi cây rải rác dọc triền đồi, dè dặt nhích từng bước một.
Ba con khỉ lúc nãy đã biến mất sau màn nước. Trước mặt tôi, con Rùa di chuyển một cách nhẹ nhàng trên sườn dốc, trông nó không có chút gì gắng sức.
-Anh nhìn cho kĩ chỗ em chui vào nhé!
Con Rùa nói với tôi trước khi biến mất ở một chỗ nào đó giữa màn nước.
Tôi run lên trong bụng khi bắt đầu nhúng người vào thác nước, cứ nghĩ sức nước tuôn xuống từ trên cao sẽ hất văng tôi xuống vũng xoáy bên dưới bất cứ lúc nào.
Nhưng điều tôi lo sợ đã không xảy ra. Do ngọn thác không cao nên sức nước không mạnh như tôi nghĩ, mặc dù tôi phải bám thật chắc cả tay lẫn chân vào các bụi cây mới không bị ngã. Con nhím co rúm trong lòng tôi, như cảm nhận được rằng bất kỳ một sự cựa quậy nào của nó cũng có thể kiến cả tôi lẫn nó rơi xuống vực.
Thực tế thì tôi đã vượt qua thử thách này không đến nỗi vất vả như tôi tưởng. Tôi tin con Rùa đã từng chui qua màn nước này nhiều lần và nó biết đó không phải là hành động quá nguy hiểm, nếu không nó đã không rủ tôi đi theo.
Tôi thở phào khi đặt được chân vào cửa hang, đầu cổ tóc tai ướt đẫm, mắt cay xè, lòng phân vân không biết làm gì với con nhím trên tay.
-Anh đặt nó xuống nền hang đi. Nó sẽ tự bò theo mình. – Trong thứ ánh sáng lờ mờ hắt vô từ màn nước, con Rùa vẫn nhận ra sự lúng túng của tôi. Nó nói, tôi thấy con nhím của nó đang nằm ngay dưới chân.
Tôi khẽ đặt con nhím trên tay xuống nền hang. Vừa rời khỏi tay tôi, những cọng lông nhọn của nó lập tức xù ra bốn phía, có lẽ là để rũ nước. Trông nó có vẻ hồi hộp, lúc này nhìn nó giống hệt một con chuột nấp trong vỏ sầu riêng đang thò đầu ra nghe ngóng.
Thằng Miếng Vá đứng cách đó một quãng, miệng chí chóe không ngừng.
-Nó giục mình đi theo nó đó anh.
-Hai con khỉ kia đâu?
-Tụi nó quay ra ngoài rồi.
Vòm hang khá rộng, tôi có thể đứng thẳng người nhưng con Rùa vẫn dặn tôi cảnh giác với những mỏm đá thỉnh thoảng nhô ra từ trần hang.
Hang càng vào sâu càng tối, chúng tôi chỉ biết dò dẫm đi theo tiếng kêu của con khỉ con.
Có rất nhiều ngóc ngách trong cái hang kì lạ này, nếu không thuộc đường sẽ rất dễ bị lạc. Con Rùa bảo tôi đây là cái hang tự nhiên, về sau được con người sửa chữa thêm để chuyển quân bí mật trong thời kỳ chiến tranh. Tôi hỏi em còn bé sao biết chuyện này. Nó bảo nó nghe ông ngoại nó kể. Con Rùa còn nói trừ ông ngoại nó ra, không một ai trong làng biết cái hang này.
-Chắc em giấu con Tập Tễnh trong cái hang này đúng không?
-Không đúng.
Câu trả lời của con Rùa hoàn toàn ngoài tiên liệu của tôi.
-Không đúng à? – Tôi tròn xoe mắt – Em bảo em vào rừng để gặp con Tập Tễnh mà?
-Điều đó thì đúng. – Con Rùa cười khúc khích – Nhưng con Tập Tễnh không ở trong hang.
Ánh sáng đùng đục hắt tới từ phía trước như thay cho con Rùa trả lời tôi. Tiếng chí chóe của con khỉ con lúc này vẳng lại từ rất xa, tôi đoán nó không kềm được háo hức khi nhìn thấy quầng sáng nên đã lao nhanh về phía trước.
Ánh sáng càng lúc càng tỏ dần, nhưng không vì vậy mà tôi tránh khỏi hai cú va đầu vào các mỏm đá đột ngột chĩa xuống từ trần hang. Một cú bên trái một cú bên phải khiến đầu tôi sưng lên hai cục. Nếu coi đó là hai cái sừng thì tôi đã rất giống một thành viên trong đám thú nhỏ của con Rùa.
Màu xanh của cây lá bên ngoài cửa hang lúc này đã hiện ra trong tầm mắt nhưng tôi chưa kịp reo lên bỗng nghe có tiếng sột soạt từ phía sau lưng rồi có cái gì đó chạm vào chân tôi khiến tôi “á” lên một tiếng đầy hoảng hốt.
-Tụi nhóc đó.
Con Rùa vừa dứt lời, tôi đã thấy hai cái bóng đen vọt lên từ sau lưng tôi phóng vù về phía cửa hang. Đó là con chồn và con sóc đi theo tôi và con Rùa trong rừng. Tôi không biết tụi nó đã vào hang và lẳng lặng bám theo hai đứa tôi từ lúc nào.
-Con chồn có thể vượt qua bức màn nước nhưng anh nghĩ con sóc sẽ bị nước cuốn trôi.
-Lúc nãy hai con khỉ quay ra là để giúp sức cho con sóc đó anh.
Bọn nhím và bọn khỉ đi sau cùng.
Tôi biết khỉ là loài hiếu động (nhìn thằng Miếng Vá lon ton phi lên trước là biết), nếu hai con khỉ phía sau không chịu vượt lên từ sớm có lẽ chúng sợ bọn nhím chậm chạp đi lạc đường. Chúng khôn ghê!
20
Cửa hang trổ ra một rẻo xanh tươi chạy giữa hai sườn núi. Một thung lũng nên thơ với những loại cây thấp và rất nhiều hoa bướm dại, hoa đuôi diều, hoa sao và các bụi cúc ngũ sắc mọc dọc các khe nước nhỏ chảy len lỏi giữa các kẽ đá trước khi róc rách buông mình xuống những chiếc hồ nhỏ ngập hoa tím nằm rải rác giữa thung.
Thận trọng đặt chân lên những tảng đá ngoài cửa hang để leo xuống, con Rùa nói với tôi:
-Đẹp không anh?
-Đẹp quá. – Tôi xuýt xoa – Cỏ cây bên này khác hẳn bên kia.
-Ngoại em bảo sườn đồi bên này nằm về hướng đông nên đón được nhiều nắng và các luồng gió ấm từ biển thổi lên.
-Hèn gì bên này không có những loại cây to giỏi chịu lạnh…
-Cũng có thể có một mạch nước nóng chảy ngầm bên dưới thung lũng này. Ngoại em đoán thế.
Con Rùa đưa mắt nhìn quanh:
-Rất may ở đây không có sông hoặc suối chảy qua. Nếu không, phường săn men theo các nguồn nước thế nào cũng tìm thấy chỗ này.
Tôi tin ngay lời con Rùa nói, không chỉ vì khung cảnh bên này ngọn đồi hoàn toàn khác với bên kia mà vì không khí thanh bình tỏa ra từ mỗi gốc cây ngọn cỏ, từ những cánh bồ công anh bay rợp trời như những vũ công kiêu hãnh khoe chiếc váy trắng tinh trong nắng sáng, từ cách bọn thú nhỏ nô đùa tung tăng trước mắt, và cả từ tiếng đập cánh rì rào của đám bọ dừa, tiếng châu chấu nhảy tanh tách trong đám cỏ mượt dưới chân khiến tôi cảm nhận được sự êm đềm dễ chịu vây bọc chung quanh.
-Con Tập Tễnh sống ở đây.
Con Rùa nói, và gần như ngay lập tức tôi nhìn thấy một con nai tuyệt đẹp đang đứng dưới bóng cây bạc hà miêu đưa đôi mắt đen láy nhìn lên chỗ cửa hang.
Đó là một con nai màu vàng nâu với những chấm trắng lốm đốm trên toàn thân, hai tai to như hai chiếc lá bàng lúc này đang vểnh lên hướng về phía tôi và con Rùa. Nó đứng đó, dưới bóng lá, không kêu lên cũng không gõ móng xuống mặt cỏ nhưng tôi vẫn mường tượng được sự bồn chồn trong dáng đứng bất động của nó.
Chưa bao giờ tôi quan sát một con nai ở khoảng cách gần đến thế, và khi tôi theo con Rùa tiến đến sát bên con Tập Tễnh, đưa tay vuốt ve bộ lông mềm mại và chiếc mũi đen ướt của nó thì đó là lần đầu tiên trong đời tôi chạm tay được vào con thú xinh đẹp xưa nay tôi chỉ nhìn thấy trong những trang sách.
Đến lúc đó thì con nai con mới gõ móng, nhảy vài bước ngắn quanh hai đứa tôi để chào mừng, rồi dừng lại âm yếm giụi đầu vào ngực con Rùa, cánh mũi không ngớt phập phồng vì xúc động.
Trông cái cách con nai con mừng rỡ đón con Rùa, tôi không khỏi liên tưởng đến hình ảnh tôi hồi bé mỗi lần đón mẹ đi chợ về.
Con Rùa không có quà bánh cho con Tập Tễnh như mẹ tôi vẫn có quà chợ cho tôi. Con nai con có lẽ cũng chẳng thiếu thốn gì giữa một thung lũng vui tươi tràn ngập hoa cỏ như tôi đang nhìn thấy.
Quà của con Rùa là những mẩu chuyện trong cuốn Tâm hồn cao thượng nó mới được nghe tôi kể.
Tất nhiên tôi không tin một con nai có thể nghe chuyện nhưng khi con Rùa thong thả bước lại phía lạch nước, ngồi lên tảng đá đang được che dù bởi những cành lá buông rủ trễ tràng như những bím tóc cài hoa đỏ của cây tràm liễu ở phía trên, tôi ngạc nhiên thấy con nai vội vã đi theo trên những bước chân náo nức.
Và khi con Rùa đặt mình lên tảng đá, con Tập Tễnh lập tức nằm dán mình lên các bụi thủy trúc, đầu ghếch lên đùi con Rùa, lặng yên chờ đợi.
-Hôm nay chị có chuyện mới kể cho em nghe nè.
Con Rùa âm yếm nói, vừa nựng Tập Tễnh bằng cách vuốt ve vành tai của con nai bằng hai ngón tay như thể đang mân mê một chiếc lá.
Tôi đứng bên cạnh, tựa lưng vào cây tràm liễu, tò mò xem một con nai nghe chuyện là như thế nào. Vì tôi như không tin được vào mắt mình khi thấy cái cách con Tập Tễnh nghe con Rùa kể chuyện giống một cách kỳ lạ dáng điệu của con Rùa khi nó ngồi trước mặt tôi để rình từng mẩu chuyện về cậu bé thành Padova hay chú lính chì đánh trống người đảo Sardegna.
Về sau này tôi mới biết con Tập Tễnh thực ra chẳng thể hiểu được những chuyện kể của con Rùa. Điều mà con nai con cảm nhận được và chờ đợi một cách hạnh phúc là tình cảm của con Rùa dành cho nó bộc lộ qua ánh mắt long lanh, qua giọng kể thủ thỉ, qua bàn tay mơn trớn, tất cả toát lên một tình yêu đủ sức sưởi ấm bất cứ một trái tim nào, của một con người hay của một con nai.
Chỉ có con nai nghe con Rùa kể chuyện, có lẽ đó là thói quen trong những ngày con Rùa chữa trị thương tật cho nó và lúc đó có lẽ con Rùa đã dùng câu chuyện về làng Đo Đo trong cuốn truyện tranh để làm dịu những cơn đau của con nai con.
Gần đó, những con thú khác đang làm những công việc khác: con chồn hương xám tro đang lăng xăng trên những cẳng chân ngắn, chiếc mõm nhọn đánh hơi ra bốn phía bằng những cú quay tròn, đôi mắt màu hạt dẻ không ngừng láo liên tìm kiếm thức ăn trong những bụi thảo quả và đậu ma, cuối cùng trèo lên một cây đu đủ hoang mọc chen giữa các bụi móng rồng.
Bầy khỉ đánh đu trên cây vảy ốc, vừa chí chóe vừa hái trái ném nhau một cách phấn khích, đôi lúc trúng phải lũ sóc leo trèo trên cây nhãn lồng gần đó khiến bọn nhóc bỏ chạy toán loạn.
Trong khi bọn nhím hái lá đinh lăng chán lại rủ nhau sục mõm dưới các bụi dong để bới củ, lũ gà rừng đậu trên các cành cây thấp hân hoan gáy chào mặt trời ban trưa.
Trên cái nền âm thanh xáo động đó, lại còn thêm tiếng gió lao xao lùa qua các nhánh tràm liễu nữa, giọng kể rì rầm của con Rùa có lúc bị chìm đi nhưng sự âm yếm trong mọi cử chỉ của nó lúc nào cũng truyền đi một thông điệp dịu dàng khiến trái tim của con nai con có lẽ không ngừng thổn thức.
21
Trong lũng mộng mơ là nơi con Rùa giấu con nai con khỏi mắt của phường săn. Đó cũng là thiên đường bình yên của những con thú nhỏ. Đã đặt chân đến miền đất hứa này rồi, không một con thú nào muốn quay lại bên kia ngọn đồi để sống nơm nớp trước những mũi súng và những cái bẫy rập.
Chỉ bọn khỉ là thích trở lại phía rừng ngoài, chẳng hiểu tại sao. Con Rùa bảo tôi vậy, khi hai đứa tôi chui vào hang để quay về lối cũ, ba con khỉ liền lập tức bám theo. Có thể vì chúng là loài thú thông minh nhất trong đám, luôn nuôi trong lòng sự tự hào chính đáng là chỉ có chúng mới có thể đi xuyên qua ngọn đồi mà không sợ lạc đường để chết giấm giúi ở một ngóc ngách nào đó trong hang tối. Ước muốn trở thành người dẫn đường tin cậy và là một trợ thủ đắc lực cho con Rùa cũng có thể là động lực khiến tụi nó luôn muốn có mặt ở khu vực hiểm nguy.
Bọn khỉ lúc tụt lại đằng sau lúc vọt lên đằng trước, liên tục va một cách bất cẩn vào chân tôi và thường là do thằng Miếng Vá hiếu động dẫn đầu.
Tôi cố nhớ những chỗ đầu tôi đụng phải các mẩu đá chĩa xuống từ trần hang và vì không thể nào nhớ nổi nên tôi phải đi lom khom một quãng khá xa mới dám thẳng lưng lên.
Trước mặt tôi, con Rùa vẫn lặng thinh rảo bước mặc cho bọn khỉ nhảy nhót và chí chóe luôn mồm.
Chỉ đến khi tiếng nước chảy vọng tới càng lúc càng gần và ánh mặt trời từ bên ngoài rèm nước tạo nên một quầng sáng đục mờ nhễ nhại ở phía trước, con Rùa mới lên tiếng:
-Miếng Vá, gượm đã em!
Lần này tôi đã bớt ngạc nhiên khi con khỉ con đứng lại ngay khi nghe mệnh lệnh của con Rùa. Hai con khỉ kia cũng lập tức dừng chân.
-Sao thế em? – Tôi hỏi.
-Cẩn thận kẻo chạm phải phường săn ở bên ngoài.
Tôi biết con Rùa sợ cánh thợ săn trong làng phát giác ra lối đi bí mật đằng sau thác nước và như một phản xạ tự nhiên tôi nín thở bám theo nó tiến đến sát bức màn nước nghiêng tai nghe ngóng, mặc dù tôi biết phường săn không thể nghe thấy tiếng hô hấp của bọn tôi cũng như bọn tôi không thể nghe được tiếng chân của họ nếu quả thực họ đang ở bên ngoài.
-Mình chờ một chút xem có nghe thấy tiếng súng nào không.
Con Rùa nói khẽ, không biết lần thứ bao nhiêu nó nhìn thấu tim gan tôi và cũng như mọi lần nó ngay lập tức, gỡ bỏ câu hỏi đang vướng trong đầu tôi như một thứ móc câu mà từ lúc chơi với nó tôi luôn luôn mắc phải.
Bọn khỉ bắt chước con Rùa, hết nghiêng bên tai này lại nghiêng bên tai kia nhưng đã mười lăm phút trôi qua chúng tôi vẫn chẳng nghe thấy động tĩnh gì.
-Ra trước đi em!
Tiếng con Rùa vang lên và chỉ chờ có vậy, thằng Miếng Vá láu táu chui tọt qua màn nước.
Con Rùa kiên nhẫn đợi thêm một lát rồi nhẹ nhàng đưa tay vén bức rèm nước với động tác y như đang vén một bức rèm thật, bất chấp nước văng tung tóe lên người. Nó đưa tay tóm lấy một nhánh cây lơ lửng phía trên để giữ thăng bằng, rồi dọ dẫm bước ra ngoài bằng cách sờ soạng chân lên những mỏm đá và những bụi cây mà bọn tôi từng bám vào đó để đi vào hang.
Năm phút sau, bọn tôi (tức là tôi và con Rùa cộng thêm hai con khỉ) đã ở bên ngoài bức rèm nước và tôi bỗng nhiên bắt gặp cái cảm giác mình đang quay về chốn cũ, sau chuyến du lịch dài vào một thế giới bình yên, thơ mộng và gần như không có thật.
Mặt trời lúc này đã lên giữa đỉnh đầu và những tia sáng láu lỉnh đã tìm cách xuyên qua những chiếc lá du sam để đến nhảy nhót trên vai tôi và trên má con Rùa.
Tôi quay đầu nhìn dáo dác, nhẹ nhõm khi không thấy bóng phường săn quanh đây nhưng đúng vào lúc tôi định giục con Rùa ra về thì có tiếng khỉ kêu vọng tới. Tiếng kêu kéo thành tràng, sợ hãi, đau đớn vì hoảng loạn.
-Thằng Miếng Vá!
Con Rùa buột miệng và nó co giò chạy theo hai con khỉ lớn đã nhốn nháo phóng đi ngay từ khi nghe tiếng kêu đầu tiên.
Tôi cũng lập tức vọt theo và sau khi vất vả bươn qua mớ bụi rậm và dây leo ngáng đường, tôi nhìn thấy một vạt cỏ dường như đã được bàn tay con người dọn dẹp, dấu vết dao rựa còn để lại trên những thân cây non chưa khô nhựa, những ngọn cỏ bị dày xéo, gãy ngang và tàn héo với phần ngọn bị úa đi trong nắng gió.
Trên mặt đất vương vãi những hạt ngô màu vàng chạy thành một vệt dài.
-Ở cuối con đường màu vàng đó một cái hố có lẽ trước đây được ngụy trang dưới lớp lá khô.
Thằng Miếng Vá đang ở dưới hố, ngước đôi mắt nhỏ nhìn lên, tay vươn về phía con Rùa, miệng kêu rối rít, khiếp đảm và mừng rỡ.
Hai con khỉ bồn chồn chạy tới chạy lui trên miệng hố, mắt nhìn con Rùa chờ đợi.
Tôi thấy rõ một chân thằng Miếng Vá bị kẹp vào bẫy, trông nó đau đớn và lo lắng.
Con Rùa nhờ tôi kiếm vài khúc cây và khi tôi đang lượm những cành cứng đem về, con Rùa leo xuống đáy hố và làm cách nào đó chỉ riêng nó biết đã phá tung được cái bẫy kẹp. Thằng Miếng Vá tỏ ra rất đau đớn trong lúc con Rùa tháo bàn chân nó ra khỏi bẫy. Trông nó vừa kêu khóc vừa choàng tay ôm chặt cổ con Rùa, tôi như nhìn thấy một đứa bé con đang được mẹ chăm sóc vết thương và cảm giác đó khiến tôi nghe cay cay nơi sống mũi.
Sau khi tôi và hai con khỉ tiếp sức cùng con Rùa lôi thằng Miếng Vá lên khỏi miệng hố, cả bọn quay trở lại lối cũ – con khỉ con đeo trên lưng một con khỉ lớn, miệng không ngớt rên theo kiểu khỉ – để ngược về phía thác nước.
Theo cách sắp x