-->
Chàng nhìn thiếu nữ mỉm cười và cúi đầu cung kính chào bà mẹ.
Bà lão lộ vẻ vui mừng hỏi:
- Kìa tráng sĩ đi Phiên Ngung về rồi đấy à?
Khi bà lão bước vào trong buồng thì thiếu nữ tiến đến gần chàng thanh niên,
lấy tay xoa nhẹ chuôi kiếm hỏi rất nhỏ, nhưng cũng đủ lọt vào tai Anh Kiệt:
- Anh đi đường có mệt lắm không?
Thanh niên nhìn chàng đáp:
- Cám ơn em? Không mệt lắm nhưng nhớ em rất nhiều.
Thiếu nữ quay đi e thẹn rồi vụt chạy ra nhà sau. Chàng thanh niên nhìn theo
nàng bằng đôi mắt trìu mến.
Nhưng chàng bỗng sa sầm nét mặt, khi nhìn thấy ba tên lính Tàu đang ngồi
bên kia bàn.
Chàng quay nhìn đi nơi khác song tất cả những cử chỉ của chàng từ khi bước
vào quán đều không lọt qua cặp mắt của tên lính Tàu ốm nhom đang ngồi trong
góc.
Hắn thì thầm bên tai Phà Thón:
- Cái thằng này đáng ghét thật? Nó lộ vẻ khinh khi chúng mình ra mặt.
Phà Thón cúi xuống nốc hết ly rượn đáp:
- Không cần biết chuyện đó ? Nó dám cười tình với con bé kia thì đủ khiến cho
tôi giết nó rồi mà.
Và như nổi xung lên, hắn hét vang nhà:
- Chủ quán?
Hắn loạng choạng đứng dậy trong lúc mọi người hoảng kinh quay nhìn hắn.
Thiếu nữ từ trong bếp chạy ra hớt hải.
Phà Thón hất hàm gọi:
- Lại đây?
Thiếu nữ khiếp đảm quá, chưa biết tính sao, đôi mắt nàng cứ nhìn người yêu
như muốn hỏi xem mình hành động cách nào?
Bà mẹ từ trong buồng chạy ra đáp thế cho con:
- Dạ? Dạ, các ông hỏi gì?
- Không ai hỏi bà? Biểu con kia lại đây.
Thiếu nữ bước tới vài bước rồi dừng hẳn lại, thu hết can đảm nói:
- Mấy ông muốn gì?
- Lại đây biểu?
Thiếu nữ đáp cứng rắn:
- Không? Mấy ông muốn gì cứ nói.
Phà Thón tức giận đến cực độ, nhảy xổ tới, nắm lấy tay thiếu nữ lôi về phía
bàn, miệng la hét:
- à, con này gan thật? Mi dám trái lệnh các ông hả?
Thiếu nữ kêu la thảm thiết. Chàng thanh niên vụt đứng phắt lên, chụp lấy
chuôi gươm rút ra khỏi vỏ.
Thiếu nữ kinh hoảng, cố vùng vẫy thoát khỏi bàn tay hộ pháp của Phà Thón,
chạy về phía người yêu khuyên can:
- Đừng, anh ơi ? Đừng gây sự với chúng ? Anh chưa thật hết bệnh mà.
Thanh niên, đôi mắt như nảy lửa, xô thiếu nữ sang bên, bước tới.
Ba người Tàu cũng rút đoản đao ra. Phà Thón nghiến răng ken két, hầm hừ
bảo:
- Nhãi con? Mi đã tận số rồi?
Thanh niên không nói một lời, vung kiếm lên, chém bổ vào đầu hắn. Phà Thón
né mình sang bên, chém phạt ngang hông địch thủ một nhát nhanh như gió, bắt
buộc chàng thanh niên phải luôn tay kiếm bọc theo mình đỡ một miếng đòn bất
ngờ. Một tiếng “Keng” vang lên.
Phà Thón ngạc nhiên nhìn chàng thanh niên. Mới qua hiệp đầu, hắn thấy rõ kẻ
địch không phải là tay vừa và hắn không thể thắng dễ dàng như đã tưởng.
Hai tên kia, như hiểu rõ tình thế, vội vàng xông vào trợ chiến. Thanh niên vẫn
điềm t~nh giao đấu, không chút nao núng.
Chàng đánh càng lúc càng hăng, đường kiếm biến hóa nhanh nhẹn khác
thường làm cho cả ba người Tàu đều kinh hồn khiếp vía.
Anh Kiệt đứng sát vào vách nhà, bình t~nh xem trận đấu và thầm khen kiếm
pháp của người thanh niên.
Chàng nguyện trong lòng sẽ tìm cách kết giao với kẻ tài hoa ấy.
Nhưng chỉ một lúc Anh Kiệt lo sợ. Tự dưng kiếm pháp của chàng thanh niên
đâm ra rời rạc và mặt chàng tái mét hẳn đi. Chàng loạng choạng vài bước rồi bổ
nhào xuống cạnh bàn.
Thấy thế Phà Thón cả mừng giơ cao lưỡi dao, sẳn sàng chém xuống. Anh Kiệt
toan nhảy vào cứu chàng tráng sĩ, thì một tiếng thét vang lên làm cho mọi người
đều quay lại.
Thiếu nữ chủ quán liều chết lăn xả vào ôm choàng lấy người yêu, khóc nức
nở. Nàng ngước nhìn Phà Thón cầu khẩn van xin:
- Đừng giết anh ấy ông ơi? Anh ấy đang bệnh mà…
Phà Thón rút đao về, Anh Kiệt càng theo sát chúng hơn. Chàng chỉ sợ chậm
trễ một phút sẽ nguy đến tính mạng của đôi thanh niên nam nữ.
Tên lính ốm nhom vụt nhìn ra ngoài trời bảo bạn:
- Chiều rồi Phà Thón ạ? Chúng ta đi thôi.
Phà Thón như hiểu ý, cúi xuống ôm ngang lưng thiếu nữ.
Nàng vùng vẫy la hét:
- Buông tôi ra? Buông ra? Mẹ ơi là mẹ ơi? Cứu con với?
Bà lão từ nãy giờ quá khiếp sợ, núp trong buồng, nghe tiếng con gọi vội chạy
ra, lăn xả vào ôm chân Phà Thón.
- Trời ơi? Đừng bắt con tôi… Già nua tuổi tác, chỉ còn một mẹ một con ông ơi.
Phà Thón lấy chân hất bà lão nhưng bà vẫn ôm chặt cứng. Thiếu nữ trên tay
hắn cũng giãy giụa mạnh hơn, Phà Thón tức giận lắm, không cần suy nghĩ, đưa
cây đoản đao lên toan bổ xuống đầu bà lão.
Nhưng thình lình một lằn sáng lóe dài dưới ánh nắng chiều xuyên kẽ lá. Một
tiếng “Cạch” khô khan vụt nổi lên, cây đoản đao của Phà Thón gãy làm hai đoạn.
Ngay lúc ấy Anh Kiệt đã đứng đấy tự bao giờ. Chàng khẽ mỉm cười nhìn Phà
Thón đang hốt hoảng buông thiếu nữ ra, mắt nhìn cây đoản đao cụt ngủn và lùi
dần, về phía hai tên đồng bọn.
Anh Kiệt ôn tồn và nhã nhặn cất tiếng:
- Thôi chứ mấy ông? Hiếp bức người ta quá sao đành?
Gã tuổi trẻ nhất trong bọn vẫn kiêu ngạo và xem thường Anh Kiệt từ khi
chàng mới bước chân vào quán. Hắn sấn tới, thét:
- Thằng chết bầm này? Mày cũng muốn can thiệp vào chuyện riêng của bọn ta
nữa phải không?
Anh Kiệt cười khanh khách:
- Bạn còn nhỏ quá mà kiêu căng tự phụ thì chắc chắn sẽ không khỏi bị hại. à,
lúc nãy, hình như lúc nãy bạn muốn mượn kiếm của ta để cắt cổ gà chứ gì? Hà, hà,
kiếm này bén lắm? Chém sắt như chém bùn bạn ạ?
Rồi làm ra vẻ thân thiện. Anh Kiệt tiếp lời:
- Bạn chưa tin hả? Để tôi cắt thử một bên tai bạn xem có đúng không?
Anh Kiệt quay lưỡi kiếm vùn vụt nhiều vòng, làm cho tên lính trẻ tuổi mờ mắt
đi, không thấy đường nữa.
Thình lình hắn thét lên một tiếng, quăng kiếm, ôm lấy đầu kêu la thảm thiết.
Phà Thón nhìn bạn và khiếp đảm vô cùng, khi thấy một lỗ tai của hắn đã bị
Anh Kiệt xẻo mất tự bao giờ?
Nàng thiếu nữ và bà mẹ quá khiếp sợ chạy vào trong.
Hai gã lính Tàu, trước sự đau đớn của bạn, nghĩ ngay đến phiên mình bị hại,
liền xông vào một lượt, vây chặt kẻ địch.
Phà Thón hăng hái nhất, chụp thanh kiếm của chàng thanh niên dưới đất,
chém bổ vào đầu Anh Kiệt.
Chàng dũng sĩ cười dòn tan, không cần né tránh, đưa kiếm đỡ. Một tiếng
xoảng vang lên, hai thanh kiếm chạm vào nhau nảy lửa.
Phà Thón tê buốt cả cánh tay, loạng choạng suýt té. Thanh kiếm của chàng
thanh niên rất tốt, nên không sút mẻ chút nào.
Tên lính gầy ốm, toan sấn tới giúp bạn, nhưng không hiểu nghĩ sao, hắn thối
lui, đứng sát vào vách, mò trong áo như tìm vật gì.
Anh Kiệt đưa kiếm chỉ vào mặt Phà Thón nói:
- Anh nóng nảy lắm nhưng rất ngu dại. Đừng nên tin vào sự sợ sệt bên ngoài
của kẻ lạ mà đôi khi bị hại. Lần này ta dạy cho bài học để chừa bớt tính hung
hăng.
Anh Kiệt nói xong vung kiếm chém thẳng vào mặt Phà Thón. Và đợi khi hắn
đưa kiếm lên đỡ, chàng nhanh nhẹn rút kiếm lại chém đứt “Cùi chỏ” của hắn.
Phà Thón hét to lên, xuôi tay, buông rơi thanh kiếm.
Anh Kiệt nói tiếp:
- Từ nay, anh sẽ không bao giờ còn cầm được vũ khí để giết người nữa.
Anh Kiệt vừa dút lời, bỗng nhiên quay đầu lại, xoay tròn lười kiếm bao bọc
thân mình. Từ phía trước ba lười dao vùn vụt bay tới, đụng nhằm lưỡi kiếm bắn
vẹt đi
Tên lính gầy ốm thấy ám hại chàng không được, vội chạy ra cửa toan thoát
thân, nhưng Anh Kiệt đã nhảy tới nắm cổ hắn kéo lại.
Chàng tức giận lắm, nhưng cố dằn xuống nói:
- Đừng trốn chạy, ta không giết mi đâu. Bình thường ta nể những tay mưu sĩ
nhưng rất ghét lulullg thăng giêt lén. Ta cần phải làm dấu lên mặt mi cho dễ nhớ.
Anh Kiệt đưa kiếm lên gạch tréo vào mặt hắn rồi buông tay ra. Chàng hành
động trong nháy mắt, khiến tên lính Tàu không ngờ trước được.
Hắn chỉ kịp la lên một tiếng đau đớn, rồi ôm chầm lấy mặt, lăn lộn dưới đất.
Trừng trị xong bọn khốn kiếp, Anh Kiệt liền gọi thiếu nữ.
- CÔ chủ quán?
Thiếu nữ vẫn còn run sợ bước ra, nhưng khi nhìn ba tên lính Tàu đều bị
thương nhăn nhó rên la, thì nàng yên lòng.
Anh Kiệt cất tiếng hỏi:
- CÔ đành bỏ chàng tráng sĩ ấy ư?
Sau phút kinh hoàng thiếu nữ chợt nhớ ra, vội chạy đến vực người yêu dậy, và
gọi mẹ nàng. Bà lão tiếp tay với thiếu nữ đem chàng tráng sĩ vào trong cứu chữa.
Anh Kiệt bước đến gần ba tên lính Tàu nói từ từ:
- Ta không giết chết các ngươi vì đây là lần thứ nhất. Các ngươi là kẻ ngoại
bang, đến đây cần phải giữ lễ độ với người trong xứ, đừng hống hách quá, chỉ đem
họa vào thân.
Chàng nhìn thẳng vào mặt tên lính kiêu ngạo nhất nói tiếp:
- Lúc nãy, mi cho rằng vua Ai Vương sợ chúng bây thì dân chúng là đồ hèn
mọn cả, mặc tình cho chúng bây tung hoành ra sao cũng được, phải không? Mi
lầm lắm? Ta tha chết cho mà về bảo với tất cả rằng “Dân Nam không hèn mọn như
bây tưởng đâu? Liệu mà bớt hống hách không thì có ngày bỏ xác ở đất này”.
Ba tên lính Tàu nín lặng cúi đầu. Chúng cắn răng chịu đựng sự đau đớn của
lulullg vêt thương.
Anh Kiệt bỗng im lặng chú ý nghe. Xa xa hình như có tiếng vó ngựa dồn dập,
mỗi lúc một gần.
Chàng nhìn ra cửa và thấy một đoàn ky sĩ đang tiến gần về phía quán. Tướng
đi đầu mặc giáp trắng rất uy nghi.
Anh Kiệt lo sợ vô cùng, không khéo chàng nguy mất vì đoàn ky sĩ kia là binh
lính của triều đình đi tuần tiểu quanh vùng. Nếu gặp chàng đang hành hạ lũ bộ
tướng sứ giả Hán triều thì chàng không thoát khỏi tội.
Theo lệnh Ai Vương và Cù Thị, bất cứ người ở cấp nào cũng không được
quyền trị tội quân sĩ nhà Hán. Dù chúng đang phá rối, cướp của, giết người đi nữa,
quân lính chỉ được phép bắt chúng giải về triều cho vua xét xử mà thôi. Ai giết
chết một tên lính Tàu có thể bị xử tử hình. Nghiêm lệnh bất công ấy, các tướng
đều biết do An Quốc Thiếu Quý bày ra để bảo vệ quân lính của hắn, nhưng đã là
lệnh vua truyền thì mọi người chỉ biết răm rắp tuân theo.
Tiếng vó ngựa của đoàn ky sĩ dồn dập nện trên đường, càng đến gần càng làm
cho Anh Kiệt bối rối.
Bây giờ, chàng chỉ lên ngựa phóng đi là xong, nhưng đã gây ra cớ sự này
không lý lại để liên lụy cho bà chủ quán ư? Còn chàng tráng sĩ bị bệnh thình lình
ngã lăn ra kia rồi sẽ ra sao?
Chắc chắn, người này sẽ bị bọn lính Tàu trả thù? Dù sao thì chàng cũng không
thể bỏ họ nửa chừng.
Anh Kiệt bước lại cửa buồng hối mẹ con người thiếu nữ:
- Bà và cô nên đem chàng thanh niên này đi nơi khác. Quân triều đình đã đến
kia rồi. Hãy ra ngã sau mà trốn mau lên?
Thiếu nữ và bà lão đều kinh hoàng chưa biết tính sao thì chàng tráng sĩ bỗng
cựa mình. Thiếu nữ thấy thế vụt reo mừng:
- Kìa? Anh ấy đã tỉnh rồi mẹ ơi?
Chàng tráng sĩ từ từ mở mắt như vừa qua một cơn ác mộng. Chàng nhớ lại tất
cả mọi việc, vội đứng phắt dậy, nhìn Anh Kiệt.
Anh Kiệt cũng bớt lo, chàng nói nhanh:
- Vậy bà và cô đi mau lên để không còn kịp nữa.
Chàng tráng sĩ chợt nghe tiếng vó câu và nhìn thấy ba người Tàu đang ôm
lulullg vêt thương thì thầm đoán được hiện tình bèn nói:
- Bác và em đi ngay đừng chần chờ nữa. Cháu đã bình phục rồi.
Tiếng vó ngựa bỗng chậm lại rồi rộn rịp trước cửa quán. Mẹ con bà lão kinh
hoàng bỏ chạy ra ngã sau hướng về phía ngọn đồi. Họ đi tắt ra con đường khá rộng
rồi lẩn mất.
Bây giờ đám lính tuần đã xuống ngựa và rầm rộ kéo vào quán. Ba tên lính Tàu
vụt kêu cứu vang ầm và chỉ tay về phía Anh Kiệt và chàng tráng sĩ. . .
Đám lính tuần kinh ngạc khi thấy bọn lính Tàu bị thương, máu đổ đầm đìa…
Anh Kiệt và chàng tráng sĩ biết là cơ nguy đã đến vội bước ra ngoài giữ thế
thủ.
Đằng kia, bọn lính tuần chợt hiểu là hai người này đã hành hạ quân sĩ nhà
Hán? Và như vậy là phạm phép vua nên chúng thét lên, rút binh khí xông vào vây
chặt lấy hai người.
Chàng tráng sĩ chụp vội lấy thanh kiếm của mình đang nằm dưới đất để phòng
thân, còn Anh Kiệt quát to lên:
- Bọn khốn kiếp kia toan giở trò áp bức một cô gái hiền lành, ta là kẻ đi đường
thấy chuyện bất bình phải ra tay can thiệp, các ngươi hãy vì lẽ phải mà làm tội
chúng đi, cớ sao lại vây bắt bọn ta?
Nhưng bọn lính không nghe lời chàng. Viên tướng mặc giáp trắng đi đầu lúc
nãy vội nói:
- Đừng nhiều lời? Chúng bây đã phạm phải luật vua thì hãy giơ tay chịu trói.
Bằng không, khó tránh khỏi chết.
Trước những lời nói oai vệ ấy, chàng tráng sĩ không chịu được nữa. Chàng
vung kiếm lên để mở vòng vây. Quân lính bên ngoài đổ ập vào, giáo mác dày đặc.
Anh Kiệt không dừng được nữa đành đưa kiếm
kiếm lên đỡ gạt khí giới quanh mình
và gọi chàng tráng sĩ:
- Nhân huynh, chúng ta mau rời khỏi nơi này đi thôi.
Thanh kiếm chàng vung mạnh lên, đánh bật giáo gươm của bọn lính tuần
khiến chúng phải lùi lại. Nhưng khi chàng ra trước cửa quán thì một tiếng thét
vang lên, lính vẹt ra hết, nhường chỗ cho viên tướng mặc giáp trắng, múa trường
côn vùn vụt đập vào đầu Anh Kiệt. Chàng kinh hoàng nhảy lùi lại thì đà côn vụt
sát mặt chàng. Anh Kiệt trông thế côn mãnh liệt, biến chuyển mau lẹ thì biết ngay
là mình gặp phải một tay bản lãnh cao cường, nên vội né tránh thêm lần nữa.
Nhưng viên tướng kia sử dụng cây côn rất lẹ làng, vừa đánh hụt đã hoành thân
bổ tiếp xuống đầu chàng một côn nữa nhanh chớp nhoáng.
Không thể tránh kịp, Anh Kiệt phải vung gươm lên gạt mạnh ra. Trường côn
dội ngược trở lại khiến tên kia ngạc nhiên nhìn Anh Kiệt, và không ngờ sức chàng
mạnh đến thế . . .
Anh Kiệt toan đánh trả ngay nhưng giữa lúc ấy chàng tráng sĩ kia bị bọn lính
bao vây rất nguy khốn. Chàng đang lo đỡ gạt phía trước mặt thì sau lưng, một tên
lính dùng giáo đâm tới rất nhanh.
Anh Kiệt không dám chần chừ vội thối bộ và đưa kiếm gạt phăng ngọn giáo,
rồi phóng chân đá nhào tên lính đó.
Chàng mở rộng đường kiếm đánh dạt bọn lính để cứu nguy cho chàng tráng sĩ
thì tên lính cầm giáo đã ngồi dậy được, tức tối đâm mạnh ngọn giáo vào yết hầu
chàng.
Anh Kiệt khinh thường đưa kiếm chém cụt lười giáo, và chém tạt xuống đầu
tên nọ một phát nhanh như gió.
Chỉ nghe một tiếng rú ghê hồn là tên kia ôm đầu, máu ra có giọt, một lỗ tai
của anh ta đứt lìa rơi xuống đất, khiến bọn lính tuần khiếp đảm vì tài nghệ của
Anh Kiệt.
Viên tướng cầm đầu tức giận điên người, xốc tới vung côn vùn vụt áp đảo Anh
Kiệt làm cho chàng phải chống đỡ liên hồi. Nhân đó bọn lính mới xông vào vây
chàng và tráng sĩ kia khắp bốn phía.
Anh Kiệt thấy đánh lâu rất có hại cho chàng thanh niên, nên không dám chần
chừ nữa, vội kêu lên:
- Nhân huynh, hãy theo tôi.
Chàng thay đổi kiếm pháp, thanh gươm theo đà tay mở rộng ra, đánh dạt bọn
lính tuần về một phía.
Chàng tráng sĩ cũng vung kiếm chém như mưa bấc, khiến quân sĩ sợ hãi lùi ra
xa. Viên tướng cầm đầu bực tức hét lên. Chúng lại liều chết sấn vào.
Anh Kiệt cứ lo thầm vì đường côn của viên tướng kia không phải tầm thường,
cứ thay đổi thế đánh luôn luôn. Trong giây phút chàng thấy mình bị khốn trong
lulullg lLằn l côn nguy hiểm đó, nên đành phải đem hết tài nghệ ra chống đỡ.
Giữa lúc ấy, viên tướng kia chuyển đường côn ào ạt xuống đầu chàng tới tấp.
Anh Kiệt không tránh nữa, xuống tấn rồi đưa kiếm lên gạt mạnh.
Đầu côn vừa dội trở lại thì mũi kiếm của Anh Kiệt đã đâm thẳng vào yết hầu
đối thủ, khiến viên tướng phải dùng côn bên tay kia chống đỡ nhưng may mắn làm
sao Anh Kiệt đã thu gươm về, rồi chém vụt vào hông kẻ địch.
Viên tướng mặc giáp trắng đổ mồ hôi khắp thân mình. Anh ta quá khiếp sợ,
uốn mình nhảy vọt lên tránh thế kiếm độc hiểm đó và quét ngay một côn ngang
đầu Anh Kiệt, khi chân anh ta chưa chấm đất.
Anh Kiệt ghen thầm tài nghệ kẻ địch quá cao, vừa thoát độc thế đã trả đòn liền
bắt buộc kẻ địch không tấn công thêm được nữa.
Còn viên tướng kia cũng khiếp sợ tài Anh Kiệt và thấy cơ nguy cho mình càng
thúc bọn lính xông vào trợ giúp.
Từ lúc giao đấu đến giờ, bọn lính đứng gần đoàn ngựa, tin tưởng nơi tài nghệ
của chủ tướng và các bạn nên không vào, bây giờ chúng mới áp tới trợ lực.
Vòng vây bên ngoài lại thêm chặt chẽ hơn.
Anh Kiệt vẫn không nao núng. Chàng dùng toàn thế độc, đánh dạt bọn chúng
ra, khiến tướng cầm côn vừa sợ, vừa ngạc nhiên.
Anh ta nhớ đường kiếm của kẻ địch, dường như rất quen với mình. Viên
tướng biết mình không thể lầm được, phải rồi những thế kiếm kia trong bài kiếm
bí truyền của dòng họ Hoàng? Nhưng tên này là ai mà học được đường kiếm ấy?
Anh ta phân vân lắm và lo sợ nghĩ thầm:
- Thế này thì ta nguy mất, mà sẩy nó thì còn gì là danh dự của ta?
Đằng kia, Anh Kiệt không dám đánh lâu nữa. Chàng xoay kiếm nhanh như
chớp khiến bọn lính và chủ tướng chúng đều hoa cả mắt. Bọn lính tưởng chừng
như xung quanh mình có hàng vạn lười kiếm lấp lánh sáng, chực đâm vào mình
khiến chúng hoảng sợ lùi trở lại.
Nhân cơ hội đó, Anh Kiệt vung mạnh kiếm chém đút lìa mấy lưỡi giáo và phạt
mất một đầu côn cửa viên tướng khiến cả bọn quá khiếp mất hết tinh thân.
Anh Kiệt vội kéo tay chàng tráng sĩ chạy về chỗ buộc ngựa, thét lên:
- Lên ngựa đi, để chúng đó, mặc tôi.
Tráng sĩ y lời phóng lên mình ngựa của tên chủ tướng kẻ địch rồi chụp lấy
cung tên máng lên hông ngựa quay đầu lại. Tráng sĩ, không chạy vội, lắp tên vào
cung nhắm bắn vào bọn lính đang tràn tới. Sau một tiếng rú kinh khủng, một tên
ngã lăn ra.
Tráng sĩ lại lắp tên vào mà bắn tiếp theo khiến cho bọn lính bận đỡ thân mình,
không dám sấn tới nữa… Tráng sĩ thắng thế hét to lên:
- Lùi lại mau, tên nào chần chừ, ta bắn ngay vào cổ họng.
Thấy chàng bắn không sai một phát nào, bọn lính tuần kinh sợ không dám tràn
lên nữa.
Thừa cơ hội, Anh Kiệt phóng mình lên ngựa ra roi.
Viên tướng giáp trắng, mất một cây côn không còn bám chặt vào Anh Kiệt
như trước, nhưng thấy Anh Kiệt lên ngựa tẩu thoát, anh ta cũng liều nhảy theo…
Nhưng, người tráng sĩ buông dây cung, một mũi tên bay vào ngực viên tướng,
anh ta phải đưa côn lên đỡ và chưa kịp hạ côn, mũi tên thứ nhì đã bay tới… Viên
tướng biết mình đỡ không kịp nữa, hét to lên một tiếng, ngã nhào ra phía sau. . .
Mũi tên bay vút qua, ghim thẳng vào yết hầu một tên lính đứng gần đấy.
Anh Kiệt thầm khen chàng tráng sĩ.
Chàng vội gọi:
- Nhân huynh? Chúng ta đi thôi.
Thanh niên bắn thêm một mũi tên nữa rồi thúc gót chân vào hông tuấn mã,
cho phóng tới như bay. Cả hai thẳng đường về phía mặt trời lặn.
Viên tướng mặc áo giáp trắng, vừa hoàn hồn, đã lồm cồm bò dậy, la hét vang
trời:
- Đuổi theo chúng nó mau lên. Lấy cung tên bắn chết hai đứa cho ta.
Mấy mươi tên lính được lệnh phóng lên mình ngựa, đuổi theo tức khắc.
Chạy được một quãng khá xa, Anh Kiệt nhìn lại thấy bọn lính tuần vẫn đuổi
theo ráo riết. Chàng toan quay lại cho chúng một trận thì thanh niên đã nói:
- ân nhân đừng bận tâm, để chúng mặc đệ.
Tráng sĩ lắp tên và vẫn cho ngựa phi nước đại chàng bắn ngược trở lại nhiều
phát. Mỗi lần chàng quay đầu là một tên lính kêu rú lên ngã gục xuống.
Bọn lính phía sau, thấy đồng bọn chết quá nhiều, kinh sợ không dám đuổi theo nữa.
Chương 3: Cổ Am Trong Chùa Vắng
Cổ am trong chùa vắng
Đôi ngựa vẫn chạy nhanh vùn vụt xuyên qua bao cánh đồng mênh mông hiu
quạnh, giữa buổi chiều tà.
Thấy đã xa quân địch, Anh Kiệt ghìm cương ngựa, nhảy vụt xuống đất sụp
lạy:
- Cảm tạ ơn cứu tử của ân nhân. Hà Thiệu này xin ghi lòng tạc dạ.
Anh Kiệt kinh hãi, nhảy xuống ngựa, đỡ chàng thanh niên dậy:
- Kìa nhân huynh, làm chi quá đáng vậy. Gặp nhau giữa đường là bổn phận
của con nhà võ, nhân huynh làm vậy thật đệ xấu hổ vô cùng.
Chàng thanh niên chưa chịu đứng lên, khiến Anh Kiệt phải tiếp lời:
- Vả lại, nếu không có tài thần tiễn của nhân huynh thì chắc gì đệ thoát khỏi
vòng vây.
Hà Thiệu từ từ đứng lên nói:
- Tiểu đệ không ngờ gặp việc rủi hóa may. Nếu không có trận giao đấu vừa rồi
làm sao gặp được bậc kỳ tài… Nhưng ân nhân đi về đâu? Chẳng hay cao danh quý
tánh là gì?
Anh Kiệt đã dự định kết giao với Hà Thiệu từ lúc còn ở trong quán, nên càng
không ngần ngại đáp:
- Tiểu đệ tên thật là Anh Kiệt, từ Phiên Ngung định về Hạnh Hoa thôn.
Chàng chưa kịp dút lời thì Hà Thiệu đã reo lên:
- Hạnh Hoa thôn? Hạnh Hoa thôn? Có phải chăng là nơi ẩn dật của hiệp sĩ Vũ
Anh Tùng.
Anh Kiệt sửng sốt hỏi lại:
- Sao nhân huynh biết người?
Hà Thiệu nói với tất cả lòng hâm mộ:
- Tên tuổi của hiệp sĩ vang lừng khắp bốn phương trời, anh hùng trong thiên
hạ, ai còn không biết. Sư phụ của tiểu đệ khi xưa là bạn cố giao của Vũ hiệp sĩ.
Anh Kiệt lộ vẻ vui mừng:
- Thế à? Hiện tại người đâu? Nhân huynh, có thể cho đệ yết kiến người chăng?
Hà Thiệu nhìn Anh Kiệt lo ngại:
- sư phụ của tiểu đệ đang ẩn dật trong một cổ am gần đây? Bình nhật, người
không tiếp ai cả, nhưng đối với ân nhân đệ xin cố gắng. Hơn nữa, trời sắp tối, thế
nào ân nhân cũng phải nghỉ qua đêm nay.
Anh Kiệt vẫn thường mong mỏi được gặp những người bạn cũ của cha chàng
để được nghe những lời khuyên bảo mà chàng chắc chắn sẽ có ích cho mình trên
đường đời.
Hôm nay bất ngờ được yết kiến một người ở vùng này, thật là một dịp may
hiếm có.
Hà Thiệu bỗng nói:
- Thôi chúng ta lên đường, trời đã tối. Không chừng ân nhân sẽ được gặp anh
Tiểu Lý Bá ở nhà.
Hà Thiệu gục gặc đầu như nói với mình.
- Họa chăng anh Tiểu Lý Bá mới xứng tay đối thủ chứ Hà Minh không sánh
bằng.
Anh Kiệt ngạc nhiên hỏi:
- Nhân huynh bảo sao? Tiểu Lý Bá là ai vậy?
Biết mình lỡ lời, Hà Thiệu vội đáp:
- Dạ không? Anh Tiểu Lý Bá là dưỡng tử của sư phụ tiểu đệ, một tráng sĩ vũ
dũng, đa mưu, tài học quán thống thiên hạ. Vừa rồi tiểu đệ trộm nghĩ chỉ có anh
Tiểu Lý Bá họa chăng mới đủ tài giao đấu với ân nhân.
Anh Kiệt vội chống chế:
- Nhân huynh quá lời? Tài nghệ của đệ có thấm gì với những bậc kỳ tài.
Hai người cùng giục ngựa đi về phía những vườn cây rậm rạp, giữa lúc bóng
đêm cứ lan dần, lan dần…
Bầu trời không có trăng, nhưng ngàn sao le lói, tỏa sáng lờ mờ, đủ cho Anh
Kiệt thấy rõ con đường vào xóm, ngoằn ngoèo dưới những chòm cây dày đặc.
Hà Thiệu cho ngựa chạy đều đều, trên con đường càng lúc càng nhỏ hẹp hơn.
Bốn bề vắng lặng, không nghe một tiếng chó sủa, gà kêu… Vườn cây như nối
tiếp liền nhau, đến nơi vô tận.
Xa xa, có tiếng chuông buồn ngân nga làm tăng thêm vẻ cô tịch của khu vườn.
Hà Thiệu bỗng quay lại bảo bạn:
- “ân nhân” có nghe chăng tiếng chuông từ Cổ Am của sư phụ tôi vọng lại?
Anh Kiệt đột nhiên dừng ngựa và nói với Hà Thiệu với vẻ trách móc:
- Nhân huynh muốn đưa tôi đến gặp sư phụ hay định đuổi tôi về?
Hà Thiệu kinh ngạc nhìn người bạn đường trong bóng tối lờ mờ:
- Kìa ân nhân ? Tôi có làm điều gì không phải đâu?
Anh Kiệt nghiêm nghị đáp:
- Tại sao nhân huynh gọi tôi là “ân nhân” mãi vậy khiến tôi xấu hổ lắm?
Hà Thiệu bật cười:
- Tráng sĩ thật khó tánh? Nếu vậy tôi xin thưa một điều này, không biết tráng
sĩ có đồng ý chăng? Tôi muốn chúng ta kết nghĩa đệ huynh, sống chết có nhau.
Anh Kiệt vui mừng đáp:
- Được vậy còn gì hơn nữa?
Hà Thiệu lại nói:
- Tráng sĩ cao tuổi hơn, tôi xin nhường làm anh và bắt đầu từ giờ phút này hai
ta xem nhau như ruột thịt.
Anh Kiệt nói một cách chân thành:
- Tôi là một kẻ mồ côi, không có anh em, chỉ còn có một mẹ già ở Hạnh Hoa
thôn. Từ bao lâu rồi, lòng vẫn khát khao được kết nghĩa với những bậc anh hùng
trong thiên hạ nhiều tài đức để cùng chung sức giúp đời. Ngày nay được gặp hiền
đệ thật tôi mãn nguyện lắm.
Hà Thiệu cảm động, khẽ đáp:
- Hiền huynh chớ lo. Người trên đường đời, rồi đây chúng ta sẽ còn gặp nhiều
đồng chí hướng. Lát nữa đây, không chừng hiền huynh gặp anh Tiểu Lý Bá và
chúng ta sẽ cùng kết nghĩa với nhau.
Rồi như sực nhớ điều gì. Hà Thiệu dặn dò:
- Anh Tiểu Lý Bá là người cương trực, thẳng thắn. Anh rất ghét những kẻ
không thật lòng. Hiền huynh chớ nên dè dặt điều gì cả, lỡ anh ấy hiểu lầm thì khó
mà kết thân với nhau được.
Hà Thiệu lại nói thêm:
- Người dù tài giỏi đến đâu cũng phải có tật, hoặc ít hoặc nhiều phải không
hiền huynh?
Anh Kiệt mỉm cười trong bóng đêm:
- Hiền đệ chớ lo ? Anh rất ưa thích những người tánh tình khẳng khái như vậy.
Hà Thiệu chợt nhìn lên ngôi sao hôm, rồi thúc ngựa lên đường.
Tiếng chuông từ Cổ Am đã vắng bặt từ bao giờ. Gió đêm rì rào qua muôn kẽ
lá như tiếng thì thầm của vườn cây, nội cỏ.
Hai người rẽ sang tay phải, đến một con rạch nhỏ.
Anh Kiệt nhìn thấy không có cầu ngang chưa biết phải qua sông bằng cách
nào thì Hà Thiệu đã cho ngựa lội xuống nước… Rạch cạn, nuớc chỉ lấp xấp dưới
chân ngựa nên cả hai đi qua rất dễ dàng.
Vừa lên đến bờ, Anh Kiệt đã thấy trước mặt có ánh đèn và trong gió đêm,
chàng ngửi thấy mùi trầm hương thoang thoảng. Hai người cho ngựa qua khỏi
những đống gạch vụn trước sân thì đến cửa.
Tiếng mõ tụng kinh từ bên trong vọng ra đều đều rồi lơi dần và im bặt.
Hà Thiệu đưa tay đẩy cánh cửa am. Hơi ấm lùa ra quấn lấy hai người, xua đi
khí lạnh ở bên ngoài. Anh Kiệt cảm thấy trong lòng khoan khoái dễ chịu vô cùng.
ánh sáng của ngọn đèn treo trên vách tỏa khắp gian phòng trống trải, giống
như một nơi dùng để luyện võ. Những món binh khí để sát góc phòng làm cho
Anh Kiệt chắc chắn ý nghĩ của mình hơn. Một điểm nghi ngờ thoáng hiện ra trong
óc chàng. Sư phụ của Hà Thiệu có quả là một bậc chân tu không? Hay là người
đội lốt nhà sư, mượn cửa thiền để làm việc lớn?
Hà Thiệu bỗng ghé vào tai chàng bảo nhỏ:
- Nơi đây, sư phụ dùng để dạy môn đệ luyện tập võ nghệ ?
Hà Thiệu lại đưa Anh Kiệt qua một cửa nhỏ ăn thông ra phía nhà sau. Cả hai
cùng dừng lại khi thấy trước mặt một nhà sư vạm vỡ đang ngồi tham thiền trước
bàn Phật.
Hà Thiệu lại nói:
- Sư phụ đã nhập định. Giờ tụng kinh sắp dứt, chúng ta vào quỳ để đợi lệnh
người. Anh Kiệt theo bạn vào quỳ trước bàn Phật, lòng vẫn chưa hết phân vân.
Bỗng chàng giật mình kinh ngạc khi nghe nhà sư cất tiếng:
- Hà Thiệu đấy à? Con đến với ai vậy?
Câu hỏi của nhà sư làm cho Anh Kiệt hiểu rằng ông là một bậc kỳ tài: Ngồi
tham thiền mà đoán được bước chân đi…
Hà Thiệu vội đáp:
- Bạch thầy? Con đưa vị ân nhân vào ra mắt. Người vừa cứu con khỏi bọn lính
Tàu.
Nhà sư từ từ quay lại.
Anh Kiệt sụp xuống thi lễ:
- Bạch sư cụ? Tiểu sinh từ phương xa đến đây, đường đột vào làm rộn, xin sư
cụ miễn chấp.
Nhà sư biết gặp người hiền, nên đỡ Anh Kiệt đứng lên:
- Tráng sĩ đừng làm vậy? Tráng sĩ cứu mạng đệ tử của bần tăng thì chính bần
tăng đã mang ơn rất nặng rồi.
Anh Kiệt thưa:
- Xin sư cụ chớ nghĩ đến điều đó.
Nhà sư bỗng hỏi Hà Thiệu:
- Quan Tàu đã làm gì đến đỗi đệ tử phải gây sự. Ta đã cấm đệ tử không được
giao đấu kia mà?
Hà Thiệu cúi đầu nhận lỗi. Một lúc sau chàng đáp:
- Bạch thầy? Chúng hà hiếp người cô thế nên con không chịu được. Vả lại con
tưởng bệnh đã hết, nào ngờ đánh với chúng không đầy mười hiệp đã ngất lịm đi.
Nhà sư chậm rãi nói:
- Cũng thật là may? Nếu không gặp tráng sĩ đây thì con đã bỏ mạng rồi, dù ta
có hay tin cũng trễ. Phải chi ta cho Tiểu Lý Bá cùng đi với con thì mọi việc đều
yên.
Nhà sư nhìn Anh Kiệt với đôi mắt hiền từ cảm mến. ông chỉ tay sang bên
cạnh nói:
- Mời tráng sĩ sang phòng bên. Chúng ta cùng dùng trà để đàm đạo cho vui.
Anh Kiệt nhường bước cho sư cụ rồi cùng Hà Thiệu theo sau.
Gian phòng bày trí rất đơn sơ mộc mạc biểu lộ tâm hồn giản dị của chủ nhân.
Ngoài chiếc gương kê ở góc phòng, bên mặt là một án thư, bên trái là một chiếc
bàn con để uống trà… Trên vách một chiếc đàn tỳ bà treo giữa hai ống tiêu nhẳn
bóng, như gián tiếp giới thiệu chủ nhân là một tay giỏi cầm ca.
Thấy Anh Kiệt cứ chăm chú nhìn chiếc đàn tỳ bà, nhà sư mỉm cười:
- Đàn ấy không phải của bần tăng đâu? Nó là của một người bạn đã qua đời…
Nhà sư im lặng một phút, mơ màng nhớ thời xa xưa, tiếp lời:
- Buổi thiếu thời bần tăng là một kẻ giang hồ, lưu lạc khắp bốn phương trời.
Gặp người bạn kia trong lúc giao tranh với bọn cường đạo ở núi Nghiêm Trang,
huyện Vụ Bản rồi mến nhau kết nghĩa đệ huynh. Người ấy, thường hay ngồi trên
mình ngựa, khảy đàn tỳ trong những chiều xa xứ… Khi chia tay nhau người trao
tặng chiếc đàn này nên bần tăng giữ mãi bên mình, thấy nó như thấy bạn hiền…
Bây giờ thì người ấy đã về chầu đức Phật.
Hà Thiệu rụt rè nói:
- Bạch thầy? Tráng sĩ đây là người ở Hạnh Hoa thôn.
Đôi mắt nhà sư vụt sáng lên biểu lộ sự ngạc nhiên:
- Tráng sĩ ở Hạnh Hoa thôn chắc biết rõ hiệp sĩ Vũ Anh Tùng? Đàn tỳ bà kia là
người đó .
Anh Kiệt bỗng quỳ xuống lạy nhà sư giữa sự ngạc nhiên của người và Hà
Thiệu.
- Cháu kính chào thúc phụ? Cha cháu chính thật là Vũ Anh Tùng.
Nhà sư vụt đứng lên nắm chặt lấy vai chàng:
- O kìa? Vũ Anh Kiệt đây ư?
Rồi người nghẹn ngào không nói lên lời, trong lúc Hà Thiệu bước tới, bước
lui, bồn chồn, vui thích.
Một lúc chừng như bớt cảm xúc, nhà sư nói:
- Khi hay tin cha cháu mất ta tìm đến Hạnh Hoa thôn thì đã quá trễ rồi. Mẹ
cháu có bảo rằng quan Đề đốc hộ thành Hoàng Quốc Kính mang cháu về Phiên
Ngung học tập đúng như lời trăn trối của Vũ huynh. Ta rất yên lòng vì Quốc Kính
là người bạn tốt đầy đủ tài đức dìu dắt cháu trên đường đời. Ta về ẩn dật nơi đây,
nhưng vẫn hằng nhớ đến cháu. Hôm nay sao cháu lạc bước đến chốn này?
Anh Kiệt khẽ đáp:
- Thưa thúc phụ? Hoàng Đề đốc vừa cho phép cháu về Hạnh Hoa thôn thăm
mẹ, vì đã hơn sáu năm rồi, mẹ con không được gặp nhau.
Nhà sư mỉm cười:
- Quốc Kính tệ thi thôi? Chắc là Vũ hiền tẩu buồn phiền lắm?
Hà Thiệu bỗng bước đến nắm chặt tay Anh Kiệt:
- Trời? Vũ huynh? Từ lúc chiều đến giờ sao không nói rõ tung tích cho tiểu đệ
kịp mừng?
Nhà sư trách khéo Hà Thiệu như để khuyên răn:
- Nếu ở vào địa vị của đệ tử, chắc đệ tử đã thú nhận mình là con của hiệp sĩ
Vũ Anh Tùng để mọi người khiếp sợ chứ gì?
Hà Thiệu cụt hứng, lấm lét nhìn sư phụ.
Nhà sư bảo thêm:
- Đi đường xa, luôn luôn ta cần phải dè dặt cho lắm? Không mỗi một chút, mỗi
xưng danh tánh. Bọn gian biết ta là con giòng, cháu giống thì chúng càng để ý và
tìm cách hãm hại ngay. Đệ tử chưa cứu giúp được người đời thì đã mang họa vào
thân Thái độ của Vũ hiền điệt vừa qua đáng là một bài học cho đệ tử ghi nhớ.
Hà Thiệu cung kính đáp:
- Bạch thầy, con đã hiểu.
Nhà sư bỗng nói với Hà Thiệu:
- Chắc Anh Kiệt chưa dùng cơm, đệ tử hãy vào nhà trai lo lắng thay cho thầy.
Tiểu Lý Bá đi vào núi chưa về kịp.
Hà Thiệu vâng dạ lui ra cánh cửa bên trái ăn thông qua phía sau vườn.
Nhà sư quay nhìn Anh Kiệt rồi từ từ cất tiếng:
- Ta cũng biết cháu nóng lòng về thăm mẫu thân cháu. Nhưng không biết nhau
thì thôi, nay đã gặp nhau rồi, ta muốn cháu ở lại Cổ Am vài ngày để ta biết qua
nghề văn, nghiệp võ. Biết đâu ta sẽ giúp ích cho cháu phần nào để khỏi phụ lòng
Vũ huynh. Nếu rủi mai kia trên đường đời, cháu thất bại vì những cái mà bọn ta đã
trải qua, thì đáng trách biết chừng nào !
Anh Kiệt nín lặng, lòng chàng hết sức phân vân.
Thật ra, chàng rất nôn nao về thăm mẹ, nhưng trước những lời nói chân thành
và hữu lý của nhà sư, chàng thấy mình khó cưỡng lại được.
Tất cả những hiệp sĩ bạn thân của cha chàng đều cùng chung một ý nghĩ Họ
muốn truyền dạy cho Anh Kiệt đầy đủ kiếm pháp, võ nghệ cũng như cách đối
nhân xử thế, để cho chàng thành công trên đường đời. Chẳng riêng gì Hoàng Đề
đốc hay nhà sư mà Anh Kiệt dư biết rằng những người bạn của cha mà chàng sẽ
gặp sau này, đều muốn giúp chàng nên người hữu dụng.
Lúc nhỏ, mẹ chàng thường kể lại khi hạ sinh chàng, các tay hiệp sĩ có tụ họp ở
Hạnh Hoa thôn để chúc mừng cha chàng. Người nào cũng dành được quyền dạy
dỗ Anh Kiệt nên sau cùng cha chàng đã nói:
- “Tôi xin trao quyền dạy dỗ đứa trẻ này cho tất cả mọi người có mặt nơi đây,
trong bất cứ trường hợp nào, gặp lại nó trên đường đời”.
Do câu nói ấy mà ngày nay Anh Kiệt đành nén lòng nhớ mẹ ở lại thôn Cao
Đồng. Chàng chưa kịp đáp thì nhà sư đã hỏi:
- Thế nào ? Cháu có nghe lời ta nói không?
Anh Kiệt vội vã đáp:
- Kính thưa thúc phụ, cháu xin vâng ạ?
Nhà sư vui mừng đứng dậy bảo:
- Các con đừng khách sáo nữa. Anh hùng trong bốn bể đồng thanh, đồng chí là
anh em, huống chi các con cùng môn phái. Nay may mắn hội ngộ với nhau thì
phải có chén rượn mừng nhau gọi là lễ ra mắt mới đúng phép.
Anh Kiệt nói:
- Thúc phụ dạy chí phải ?
Tiểu Lý Bá cũng mỉm cười nói:
- Chúng con cũng ra mắt Anh Kiệt hiền huynh.
Anh Kiệt khiêm nhượng nói:
- Ngự đệ được hầu thúc phụ và nhị vị đại huynh đã là may mắn lắm rồi, có đâu
dám nhận mình vào hàng môn khách.
Một lúc sau bàn tiệc được bày ra dưới ánh trăng khuya.
Nhà sư và ba đồ đệ cùng Anh Kiệt ngồi quanh vừa uống rượn vừa bàn thế sự.
Hà Thiệu thuật lại chuyện vừa qua của mình và Anh Kiệt cho Hà Minh, Tiểu
Lý Bá nghe khiến hai người đều bực tức không có mặt để cho lũ khốn kiếp đó một
trận
Riêng Anh Kiệt lòng nghĩ miên man không dút. Chàng bước ra đời đã gặp
những tay tài giỏi, thế mới biết trong thiên hạ thiếu gì kẻ anh hùng hào kiệt.
Hà Thiệu đã giỏi kiếm cung mà Hà Minh còn giỏi hơn em gấp bội, đến Tiểu
Lý Bá thì là bậc phi thường, tài ba xuất chúng. Mọi người đều ca tụng tài năng của
chàng thật không quá đáng.
Trông Tiểu Lý Bá có vẻ là một văn nhân tao nhã nhưng sức chàng khỏe lạ
lùng, khiến Anh Kiệt khiếp phục và nhận người ấy còn hơn mình một bậc.
Lúc chiều, Anh Kiệt đã nghe Hà Thiệu nói Tiểu Lý Bá là tay mưu trí, thần quỷ
khôn lường, tài năng xuất chúng, đúng là người tế thế an nhân bang, nhưng chàng
muốn chính mình gợi chuyện để dò xét xem thực hư.
Anh Kiệt khởi bàn qua nghề văn, nghiệp võ, đến đâu Tiểu Lý Bá cũng đều
thông suốt làu làu như nằm trong trí.
Nhà sư bỗng đứng dậy, lui về phòng riêng, để cho các tráng sĩ được tự do bàn
bạc.
ông đã già rồi, thuộc vào lớp cũ nên chỉ giúp đỡ con, cháu khi nào chúng hỏi
đến mình.
Đợi cho nhà sư đi khuất, cả bọn lại quây quần bên tiệc rượn tiếp tục câu
chuyện.
Anh Kiệt lại hỏi Tiểu Lý Bá về chuyện trong nước:
- Lý huynh nghĩ sao về vận nước ta ngày nay?
- Nước ta rồi sẽ có ngày loạn lạc. Hiện nay, ngoại bang đang dòm ngó, mình
có khác chi “Trứng để đầu miệng rắn” ? Nếu không chuyển được tình thế này,
chúng ta đành làm tôi mọi cho Hán triều.
Anh Kiệt sửng sốt:
- Tình thế ra sao mà Lý huynh nói vậy?
Hà Thiệu nhanh nhẩu đáp thay cho Tiểu Lý Bá:
- vũ huynh không thấy bọn bộ tướng sứ giả Hán triều hống hách khắp cùng
nơi, xem mạng dân lành như cỏ rác. Chúng giết người mà không bị làm tội, dân
mình không có loạn lên ư?
Tiểu Lý Bá nhìn Hà Thiệu mỉm cười:
- Cuộc diện không như em tưởng mà còn nhiều nguyên do sâu xa khác. Chúng
ta là những kẻ đã thề liều chết vì dân vì nước thì trước bất cứ việc gì cũng phải nêu
ra câu hỏi: “Tại sao? Tại sao?” để tìm ra sự thật?
Chàng ngừng lại một chút rồi nói:
- Bây giờ anh hỏi em tại sao bộ tướng Tàu hống hách với dân lành?
- Vì dân yếu hèn không khí giới ?
- Đúng? Nhưng tại sao quân triều đình lại dung dưỡng cho chúng làm vậy?
- Đó là lệnh của Ai Vương ?
- Đúng nữa? Nhưng vì lẽ gì Ai Vương ra lệnh ấy?
Hà Thiệu lúng túng không đáp được:
Tiểu Lý Bá cả cười:
- Em thấy chưa? Hiểu cuộc diện nước nhà không thấu đáo thì làm sao giúp đời
để tế thế an bang? Ai Vương ra lệnh vì nhà vua còn nhỏ dại, không biết gì, nên Cù
Thái Hậu mới chuyên quyền. . .
Giọng nói của chàng càng buồn bã hơn trước:
- Cứ phăng lần theo đầu mối, chúng ta mới thấy điều điếm nhục cho đất nước,
tổ tiên vì một tay Cù thị. Tất cả sự chuyên quyền của người đàn bà ấy đều nằm
trong kế hoạch cướp nước của tên sứ giả Hán triều An Quốc Thiếu Quý mà ta đã
dò biết chắc chắn ngày xưa hắn là tình nhân của Cù Thái Hậu.
Hà Thiệu buột miệng kêu lên:
- Trời? Có thật vậy sao đại huynh?
Anh Kiệt thầm phục tài Tiểu Lý Bá. Chàng ẩn mình nơi chốn Cổ Am này,
không bao giờ đặt chân đến Phiên Ngung mà có thể hiểu được tất cả lulung
chuyện trong nội điện.
Chàng tìm cách nói khích để khích tài bạn:
- Đại huynh có thể lầm lẫn
chăng?
Tiểu Lý Bá mặt vẫn điềm nhiên, không đổi sắc, nhìn Anh Kiệt rồi nói:
- Vũ huynh ở tại kinh thành há không rõ sự thế xảy ra thế nào sao? Vũ huynh
chắc biết ngày nay Cù thị và An Quốc Thiếu Quý vẫn tư thông với nhau như chỗ
không người, làm những chuyện dâm bôn để lăng nhục triều thần, tôn miếu.
Quyền vua sụp đổ, làm thế nào để trăm họ khỏi lầm than.
Hà Minh và Hà Thiệu đều tức giận thét lên:
- Thật là điếm nhục ? Điếm nhục ?
Cả hai cùng hỏi Tiểu Lý Bá:
- Chúng ta đành bó tay nhìn đất nước rơi lần vào tay nhà Hán ư?
Tiểu Lý Bá chậm rãi đáp:
- Việc gì cũng phải có thời cơ? Vả lại không chỉ mình bọn ta là biết đau lòng
trước cơn quốc biến mà còn biết bao anh hùng ẩn nhẫn đợi thời. Trong triều còn
bao vị trung thần mưu toan việc lớn thì lo gì không diệt được lũ gian. Nhưng mà…
Tiểu Lý Bá ngập ngừng không nói hết câu làm cho mọi người tò mò, chú ý…
Hà Thiệu hỏi:
- Nhưng… Làm sao đại huynh?
Tiểu Lý Bá thở dài:
- Nhưng thời cơ có lẽ đến rồi? Nếu các vị lão quan không hành động, ta sợ sẽ
không còn kịp nữa ?
Anh Kiệt khiếp phục tài quán thông của Lý Bá, nhưng cũng sửng sốt trước lời
nói ây.
- Đại huynh, nói thế có ý gì?
- Quân nhà Hán sắp chiếm nước ta phải không? Hà Minh hỏi tiếp theo.
Tiểu Lý Bá từ từ đáp:
- Cũng gần như thế ? Quân nhà Hán dưới quyền Cù Lạc vừa vượt biên giới
nước ta? Vì Cù Lạc là em Cù Thái Hậu nên quân triều chịu lép cho vào!
Anh Kiệt cùng hai tráng sĩ họ Hà kinh ngạc thét lên:
- Trời ơi ? Thế thì . . .
Tiểu Lý Bá trấn an lòng các bạn:
- Tuy vậy không sao ? Chúng chưa dám đương nhiên cướp lấy nước ta, mà chỉ
muốn đe dọa triều thần sợ hãi đó thôi !
Anh Kiệt lẩm bẩm:
- Đe dọa triều thần? Các quan còn ai giám chống lại sự có mặt của sứ giả Tàu
nữa mà đe dọa? Lệnh vua truyền ra họ thi hành tức khắc.
Tiểu Lý Bá nói:
- Vũ huynh đừng lấy làm lạ. Chúng đã bắt đầu nhận thấy sự uất ức ngấm ngầm
trong triều nội, nên vội phòng xa đó.
Hà Thiệu bỗng hỏi:
- Đại huynh được tin từ bao giờ? Hiện tại chúng đã đến Phiên Ngung chưa?
- Anh em Hiệp và Hoài, từ biên giới trở về lúc chiều. Chắc chúng chưa đến
kịp kinh thành.
Tiểu Lý Bá ngừng lại một phút rồi tiếp:
- Nhưng chuyện đó không đáng lo ngại vì chắc chắn chúng không dám dùng
binh lính để đánh cướp nước ta. Chúng muốn tránh đổ máu và thôn tính nước ta
một c ách êm thắm, không phải tốn hao một tên lính nào ?
An Quốc Thiếu Quý và Cù thị đã dùng lời ngon ngọt, dùng quyền lực để bắt
ép các quan trong triều theo chúng. Hiện nay, hầu hết bọn nội giám là dư đảng của
Thái Hậu. Ngày đêm chúng làm sáo trộn nội cung, bắt người này, giết kẻ kia, gây
sự khiếp đảm trong lòng người, để theo chúng dễ dàng. Tuy nhiên, còn một số
đông các lão quan và các vị công tử ngấm ngầm chống lại. Thái Hậu sợ địa vị
mình lung lay mới nhờ Hán triều cho Cù Lạc kéo quân sang làm áp lực. Nếu các
quan khiếp sợ, bè đãng rã tan thì chúng mặc tình làm mưa, làm gió ở kinh thành.
Điều nguy cơ thấy rõ là các quan trong triều chưa đồng tâm hiệp lực lắm, không
thúc đẩy các ông thì sớm muộn gì cũng theo chúng hay bị giết hết mà thôi.
Anh Kiệt bất giác nghĩ đến Đề đốc Hoàng Quốc Kính? Chàng chắc chắn rằng
thúc phụ của mình thà chết chứ không bao giờ chịu nhục? Rồi Lệ Hồng sẽ ra sao?
Bỗng dưng, chàng nghĩ rằng mình không nên rời bỏ Phiên Ngung trong lúc
này. Giữa khi nguy cấp, cần có mặt chàng để giúp đỡ Hoàng Đề đốc một tay,
chống kẻ thù.
Chàng đứng lên nói với Tiểu Lý Bá:
- Thưa đại huynh? Tiểu đệ xin tình nguyện trở lại Phiên Ngung để báo tin này,
và thúc giục các lão quan lo kế chống giặc.
Tiểu Lý Bá nhìn Anh Kiệt có vẻ ái ngại:
- Đệ đã nghĩ đến việc đó ? Nhưng xét kỹ Vũ huynh nên về Hạnh Hoa thôn
thăm thúc mẫu, để người trông ngóng ngày đêm, Vũ huynh không xót dạ ư?
Anh Kiệt thừ người ra buồn bã, nhưng mạnh dạn đáp:
- Vận nước đang gặp hồi nguy hiểm? Chắc mẹ tôi hiểu mà tha thứ cho…
Hà Minh và Hà Thiệu đều nhìn Anh Kiệt với đôi mắt cảm phục.
Tiểu Lý Bá suy nghĩ giây lâu rồi nói:
- Vũ huynh khỏi bận tâm, cứ yên lòng về Hạnh Hoa thôn. Đệ và Hà Minh sẽ
thay Vũ huynh đến Phiên Ngung liền ngay bây giờ để báo tin chẳng lành. Đệ cũng
cần đến Phiên Ngung liền bây giờ để thấu đáo tình hình hơn.
Anh Kiệt cúi đầu nói:
- Đệ xin cảm tạ ơn đại huynh. Đệ về Hạnh Hoa thôn trong vài hôm, sẽ trở ra
ngay.
Tiểu Lý Bá khoát tay:
- Không cần hấp tấp như vậy? Vũ huynh cứ thư thả, vì rồi đây chúng ta sẽ còn
bận rộn nhiều biết đâu không còn có dịp về thăm. Vũ huynh cứ ở Hạnh Hoa thôn,
bao giờ cần đến, đệ sẽ cho người báo tin. Bây giờ Vũ huynh nên cho đệ một là thư
làm bằng, để ra mắt Hoàng thúc phụ.
Hà Thiệu bỗng đứng lên xin với Tiểu Lý Bá:
- Đại huynh nên cho đệ theo với ?
Tiểu Lý Bá lắc đầu:
- Không nên? Việc này cần kíp và vô cùng nguy hiểm. Phải đủ mưu mô qua
mắt kẻ thù, để khỏi liên lụy đến các lão quan. Nếu sơ hở một chút, họ sẽ bị hại
ngay. Hiền đệ còn đang bệnh, ta không dám phiền…
Hà Thiệu ngồi xuống ghế vẻ mặt dàu dàu, khiến Tiểu Lý Bá phải nói tiếp:
- Hiền đệ ở lại Cổ Am chăm sóc thúc phụ thay ta và ráng uống thuốc cho mau
lành bệnh. Rồi đây chắc chắn hiền đệ phải dùng cái tài “Thần tiễn” của mình để
đánh đuổi quân cướp nước. Ta cùng Hà Minh chỉ đi trong vòng vài hôm sẽ trở về
ngay.
Hà Thiệu nhìn lên khẽ nói:
- Đại huynh yên lòng ra đi. Việc nhà đã có đệ chăm lo.
Anh Kiệt cũng bước vội vào phòng lấy giấy mực thảo một lá thơ dài cho
Hoàng Đề đốc nói rõ tình hình và giới thiệu Tiểu Lý Bá.
Giữa lúc ấy cả hai người đang chuẩn bị hành trang để lên đường kịp khi trời
vừa sáng.
Chương 4: Đêm Hội Hoa Đăng
Đêm hội hoa đăng
Hai chàng dũng sĩ ở thôn Cao Đồng, đến Phiên Ngung nhằm đêm hội hoa
đăng, mừng ngày lễ thọ của Cù Thái Hậu. Từ bốn cửa thành, dân chúng lũ lượt
kéo vào để vui chơi trong đêm h
hội. Khắp các ngả, đèn lồng treo sáng rực, trên các
lề đường đầy đủ mọi thứ trò vui và nhất là trong các hàng quán thì đông đầy quan
khách. Người tứ xứ, mấy hôm nay đã có mặt nơi đây, để dự đêm hoa đăng hiếm
có
Tiểu Lý Bá và Hà Minh cho ngựa chen lấn trong đám đông đang tưng bừng
rước lễ Cả hai đều không ngờ được dịp dò biết lòng dạ của số đông dân chúng,
trước vận nước suy vị.
Bỗng Tiểu Lý Bá cho ngựa đi song đôi với Hà Minh bảo nhỏ:
- Thật là cả một âm mưu?
Hà Minh ngơ ngác nhìn bạn, không hiểu Tiểu Lý Bá định ám chỉ việc gì.
Tiểu Lý Bá tiếp lời:
- Hà đệ thấy không? Cả một âm mưu được sắp đặt trước. Cù thị lợi dụng ngay
đêm hoa đăng, chúc mừng lễ thọ của mình, để quân Hán triều vượt biên giới, xâm
nhập nước ta. Gặp cảnh tưng bừng náo nhiệt, vui chơi thỏa thích có ai còn bận tâm
nghĩ đến việc nước đang lâm nguy, dân tình đồ thán? Cả triều thần văn võ, cả dân
chúng hoàng thành say mê trong đêm hội, mặc cho quân Hán triều tự tung, tự tác.
Thế mới biết sứ giả An Quốc Thiếu Quý là kẻ mưu thần chước quỷ?
Hà Minh nhìn bạn cảm phục vô cùng.
Từ khi kết nghĩa đệ huynh với nhau, chưa bao giờ chàng thấy Tiểu Lý Bá bí
lối trước vấn đề gì? Bất kỳ câu chuyện ở đâu, hễ hỏi đến chàng thì chàng trả lời
thao thao bất tuyệt. Trí thông minh và tài học rộng của chàng có thể đoán xét được
chuyện vị lai . . .
Dân chúng mỗi lúc một đông nên đôi ngựa không còn tiến xa được nữa.
Hà Minh bảo bạn:
- Chúng ta nên ghé quán trọ gởi ngựa và đồ đạc hành trang, rồi sẽ tìm dinh
Hoàng Đề đốc ? Đại huynh nghĩ được không?
Tiểu Lý Bá gật gù ưng thuận.
Giữa lúc ấy, dân chúng bỗng dưng ùn ùn chạy tán loạn, vẹt sang hai bên
đường, nhường chỗ cho một đoàn người ngựa chạy như bay vào nội thành. Đó là
tốp ky sĩ Tàu hộ tống một viên tướng, đội mão, mặc giáp vàng, râu dài, đang đi
đến cung điện.
Tiểu Lý Bá lộ vẻ lo âu, khẽ hỏi một chàng thanh niên đứng bên cạnh.
- Viên tường kia là ai thế tráng sĩ?
Chàng thanh niên ngạc nhiên, nhìn Tiểu Lý Bá rồi đáp:
- Đại nhân ở vùng xa mới đến, sao không biết sứ giả An Quốc Thiếu Quý?
Tiểu Lý Bá mỉm cười và nói với Hà Minh:
- An Quốc Thiếu Quý đi đâu mà trở về có vẻ vội vàng để kịp giờ hành lễ trong
nội điện? Anh nghi quân nhà Hán đã kéo gần đến hoàng thành? Phải chăng hắn
đến giáp mặt Cù Lạc?
Chàng thấy cần gặp Hoàng Đề đốc ngay mới được.
Hai người gởi ngựa và hành trang rồi vội vã theo sự chỉ dẫn của Anh Kiệt tìm
đến dinh thự Hoàng Quốc Kính.
Đề đốc xây cất dinh thự trong một khu vườn rộng lớn cách xa cung điện nhà
vua, biệt lập hẳn một nơi trong kinh thành nên tránh được phần nào sự ồn ào của
đêm hội tưng bừng.
Tuy nhiên, gần đến nơi. Tiểu Lý Bá và Hà Minh ngạc nhiên thấy trong dinh
đông đầy quan khách, toàn là những thượng quan cao tuổi, quyền quý bậc nhất
kinh thành và những vị công tử đang gấm ghé mắt xanh của Lệ Hồng, ái nữ quan
Đề đốc
Xem qua tình thế, Tiểu Lý Bá cùng Hà Minh mạnh dạn tiến vào cổng dinh.
Bọn lính canh thấy hai tráng sĩ đều có vẻ khôi ngô, tuấn tú, lầm tưởng là một trong
những hàng công tử nên yên lặng cho vào, không dám xét hỏi.
Bên trong quan khách, quần áo sặc sỡ tề tựu quanh bàn tiệc hay đi dạo từng
tốp trong vườn. Các vị công tử người nào cũng mang bảo kiếm bên cạnh sườn,
trông rất uy nghi.
Tiểu Lý Bá khẽ thở dài, nhủ thầm:
- Giữa lúc nguy hiểm đến nơi rồi mà cả triều thần đều không hay biết. Nhừng
người đầy đủ quyền lực, để chống giữ sơn hà lại bận vui đùa trong đêm hội hoa
đăng? Thật đáng phàn nàn biết chừng nào?
Tiểu Lý Bá đứng lặng hồi lâu không biết phải hành động ra sao để khỏi bị
nghi ngờ, có thể bị liên lụy đến Hoàng Đề đốc. Vì biết đâu trong đám quan khách
này lại không có bọn nội gián hèn mạt, tay sai của Cù Thái Hậu?
Hà Minh bỗng ghé sát vào tai Tiểu Lý Bá:
- Đại huynh? Chúng ta vào sâu trong vườn đi.
Tiểu Lý Bá không đáp, theo chân bạn qua các con đường nhỏ trong vườn, nhìn
kỹ từng nơi, từng người để nhớ đường đi, lối bước và mong gặp được Hoàng Đề
đốc
Hai người qua khỏi những giàn hoa dạ lý hương thì đến một khoảng vườn khá
trống, cạnh hồ sen. Quan khách ở đây càng đông đảo hơn nhiều.
Hàng nghìn chiếc đèn lồng sáng đẹp, giăng trên một cái đài cao vừa mới dựng,
tỏa sáng khắp nơi.
Từ nhà thủy tạ dưới hồ, bỗng nổi lên tiếng loa truyền lanh lảnh:
- Thưa quý vị công tử. Cuộc tỷ thí võ nghệ, kiếm cung, nhân ngày lễ thọ của
Hoàng Thái Hậu sắp bắt đầu. Mời quý vị dự cuộc đến cạnh đài để ra mắt quan
khách. Xin nhắc lại một lần nữa: Cuộc tỷ thí đêm nay do Hoàng Lệ Hồng tiểu thư
làm đài chủ.
Từ trong đám đông tiếng hoan hô nhiệt liệt vang lên.
Tiểu Lý Bá nhìn xuống nhà thủy tạ thì thấy một thiếu nữ vận v