-->
Tiểu Nhạn cũng quanh quẩn tìm kiếm chỉ thấy có một sơn lộ vừa dốc vừa hẹp có thể đi xuống bên dưới. Tiểu Nhạn bèn cất tú hài vào lòng, rồi theo sơn lộ mà đi xuống.
Giây lâu sau, chàng đã đi hết sơn lộ thì thấy trước mặt là một cốc bằng phẳng.
Dòng suối phía trên chảy xuống đã thành một con sông nhỏ khúc khủyu. Ở đây trong hốc núi cũng có mấy cái động nhỏ.
Tiểu Nhạn đi lần vào mấy động tìm kiếm khắp nơi nhưng bên trong vắng vẻ không một bóng người, chỉ có mấy con thỏ rừng thấy chàng vội chui vào hang ẩn tránh.
Tiểu Nhạn biết trước đây chốn này cũng có người cư ngụ nhưng hiện giờ nhìn cảnh hoang tàn thế này chắc họ đã bỏ đi lâu rồi.
Tuy nhiên, Tiểu Nhạn vẫn còn hy vọng A Loan chưa chết mà lần mò đến đây nên cao giọng gọi liên tiếp:
- A Loan! A Loan!
Nhưng không có người trả lời. Chàng bồi hồi quanh quẩn hồi lâu trong cốc rồi mới đi xuống phía dưới.
Ra khỏi cốc thì thấy một sơn lãnh. Tiểu Nhạn tiếp tục gọi tên A Loan. Vượt qua sơn lãnh thì thấy ánh dương quang ở phía đông đã xuyên qua khe núi mà chiếu rọi trên mặt chàng.
Tiểu Nhạn chợt nhìn thấy có hai người thợ săn, một cầm đinh ba, người kia cầm cung tiễn đi lên đỉnh núi, cách chàng rất ca. Tiểu Nhạn tất tả chạy nhanh đến, vòn tay hỏi:
- Xin hỏi nhị vị huynh đài có thấy một cô nương đi xuống núi không?
Hai thợ săn nghe nói liền trả lời:
- Cô nương khoảng bao nhiêu niên kỷ? Mặc y phục màu gì?
Tiểu Nhạn đáp:
- Là một thiếu phụ hơn hai mươi, mặc áo màu xanh, giày hồng chỉ còn một chiếc.
Hai thợ săn thấy Tiểu Nhạn đầu tóc rối bù, toàn thân ướt sũng nên nghĩ chàng là một kẻ điên, bèn nói:
- Bọn ta chưa gặp qua, núi này làm gì có nữ nhân. Ngay cả nam nhân cũng rất ít.
Tiểu Nhạn lại hỏi:
- Núi này có nhiều dã thú không?
Hai thợ săn nói:
- Có rất nhiều. Thỏ, cáo, chồn, beo, thứ gì cũng có.
Nói rồi hai người cười cười tiếp tục đi lên.
Tiểu Nhạn đứng ngơ ngẩn hồi lâu, nghĩ thầm:
“A Loan nhất định chết rồi. Đêm qua khi ta đi thì mãnh thú đến. Nàng trong tay không một tấc sắt đương nhiên không thể xua đuổi chúng đi, hẳn đã bị ăn thịt chỉ còn rơi lại chiếc giày hồng”.
Nghĩ đến đó, thì hình bóng một thiếu nữ kiều diễm mỹ lệ mà bao năm lòng chàng nhung nhớ lại hiện ra rõ mồn một thành một đống thịt bầy nhầy, khiến lòng chàng nổi lên sự bi thương và căm phẫn, đang muốn tìm hết núi này giết hết dã thú để báo thù cho A Loan.
Nhưng chàng lại nghĩ:
“Ta thật quá hồ đồ! A Loan là tôn tử của thù gia nhà ta mà nàng lại đã gả cho kẻ khác. Lần này ta tận lực cứu nàng coi như đã xong chuyện. Ta mười năm khổ luyện võ công là vì phải báo thù, nay ta hạ sơn nửa năm chỉ toàn chuốc lấy những phiền não vô vị. Mãi đến giờ vẫn chưa tìm ra huynh đệ họ Long và Bào Côn Lôn, thù nhân của ta.
Còn chưa tìm ra nơi sinh tử của mẫu thân và bào đệ. Như vậy ta đã phụ lòng sư phụ khổ tâm dạy dỗ, bội phản chí nguyện mười năm học võ để báo thù”.
Nghĩ vậy, chàng thở dài một hơi, nén bi thương suy nghĩ vẩn vơ trong lòng mà đi xuống núi về hướng nam.
Đi khoảng nửa ngày cảm thấy đói bụng, chàng rán đi thêm một đoạn nữa thì bắt gặp bên đường có mấy gian lều tranh dựng tạm làm lữ điếm trong núi.
Tiểu Nhạn bước vào bảo chủ quán mang bánh bao ra. Vừa ăn chàng vừa hỏi thăm tin tức A Loan, nhưng họ trả lời không thấy. Tiểu Nhạn miễn cưỡng trả tiền rồi đi ra, điếm gia vội đuổi theo nhỏ giọng nói:
- Khách nhân không nên đi về phía nam. Về phía nam không xa là nhà Mã Bột Tử lãnh.
Tiểu Nhạn tò mò hỏi:
- Thế nào? Ở đó có hổ dữ sao?
Điếm gia nói:
- Không có hổ, mà thứ này còn lợi hại hơn hổ nhiều.
Hắn bèn kéo Tiểu Nhạn vào trong thấp giọng nói:
- Xem dáng vẻ của khách quan dường như thường đi lại chốn giang hồ, lẽ nào không biết Mã Bột Tử lãnh là phân trại của Đọa Diều Phong. Vừa rồi Bạch Mao Hổ dẫn mấy tên lâu la trở về Mã Bột Tử Lãnh. Mấy người họ có ghé đây vì quen biết với tiểu nhân, họ nói vừa từ Đọa Diều Phong đến, sơn đại vương Ngân Tiêu Hồ Lập đêm qua đã bị người ta dùng phi tiêu đánh chết. Hồ Lập cả đời sử dụng phi tiêu đánh chết cũng không biết bao nhiêu người, ngày nay lão cũng chết dưới phi tiêu, có thể xem là ác lai ác báo. Nhưng sự việc như vậy, bọn cường đạo tất sẽ nổi loạn. Trong điếm này của tiểu nhân bao nhiêu khách quan nghe tin này đều lo sợ không dám đi, chờ mấy hôm nữa quan binh nghe tin Hồ Lập chết có thể sẽ kéo đến tảo trừ. Nếu khách nhân gặp một đoàn khách thương có bảo tiêu đi kèm thì hãy đi. Hiện giờ khách nhân cứ ở lại đây nghỉ ngơi, có tiền hay không có tiền cũng chẳng sao.
Tiểu Nhạn mỉm cười nói:
- Chưởng quỹ, hảo ý của ngươi, tại hạ xin đa tạ. Nhưng ta chẳng có tiền cũng không có gì phải sợ cường đạo, nhiều lắm thì nạp mạng này, nhưng ta trộm nghĩ chúng cũng chẳng lấy mạng ta làm gì. Hơn nữa, ta cũng muốn chết đây!
Nói dứt lời, vòng tay từ biệt chủ quán rồi ra đi. Điếm gia còn cố gọi chàng lại, nhưng có người ngồi bên cạnh nói:
- Cứ để cho hắn đi tìm cái chết. Bọn Bạch Mao Hổ lợi hại lắm đó.
Tiểu Nhạn đi chưa xa, những lời bàn tán sau lưng chàng đều nghe thấy, nhưng chỉ mỉm cười sải bước đi về phía nam.
Tiểu Nhạn cắm cúi đi, cố gắng không nghĩ đến A Loan nhưng không hiểu sao lòng chàng đầy nỗi bi thương, thống hận. Những tình cảm mâu thuẫn vây chặt lấy chàng. Rồi chàng lại muốn tìm giết hết mãnh thú trả thù cho A Loan, muốn đến chỗ bọn sơn tặc giết chết mấy mươi tên côn đồ, đoạt lấy ngựa mà về Ngưu Trấn.
Quả nhiên, vừa đi vừa nghĩ, chẳng bao lâu sau khi vòng qua mấy góc núi đã nhìn thấy trước mặt một ngọn núi hiểm trở, tình thế như ngựa ngẩng cao đầu. Tiểu Nhạn biết đây là Mã Bột Tử lãnh là cứ địa của bọn Bạch Mao Hổ thủ hạ của Hồ Lập.
Đến trước sơn lãnh, Tiểu Nhạn ngẩng đầu nhìn xem, thì thấy trên núi có một đám người ước khoảng mười mấy tên, tuy cự ly quá xa không rõ diện mạo chúng, nhưng nghi ngờ bọn chúng là tặc nhân.
Bọn cường đạo này dường như cũng nhìn thấy người phía dưới. Thấy Tiểu Nhạn một mình lại không cưỡi ngựa, không mang hành lý, chúng cho rằng Tiểu Nhạn chỉ là một người nghèo trong làng không đáng để cướp nên không xuống núi.
Còn Tiểu Nhạn nhìn lên chúng mà tiếp tục đi lên. Bọn cường đạo trên núi giật mình đồng thanh kêu lớn khiến bọn bên trong càng kéo ra đông đảo. Bạch Mao Hổ cũng cầm trường thương xuất hiện, không chờ Tiểu Nhạn đến gần đã phẫn nộ mắng:
- Tiểu tử kia, ngươi muốn làm gì? Mau đứng lại!
Tiểu Nhạn vẫn lầm lũi đi lên, đến cách không xa mấy mươi bước, mới cao ngạo hỏi:
- Mi là Bạch Mao Hổ phải không? Ta muốn đến đây mượn một con ngựa, đồng thời ta cũng khuyên bọn ngươi mau giải tán, tìm việc lương thiện mà mưu sinh. Bằng không chẳng những quan binh sẽ đến đây tiêu trừ bọn ngươi, mà chính ta cũng sẽ không để các ngươi hoành hành, hãm hại khách thương.
Bạch Mao Hổ đỏ mặt giận giữ hét:
- To gan, mi là gì lại dám buông lời ngông cuồng như vậy?
Tiểu Nhạn thản nhiên nói:
- Ta là Giang Tiểu Nhạn. Đêm qua chính ta đã dùng phi tiêu đánh chết lão tặc Hồ Lập đó.
Bọn thủ hạ đứng quanh đó nghe nói vậy muốn vung đao xông lên, nhưng Bạch Mao Hổ lại đưa tay ngăn cản. Hắn đưa mắt ngắm nghía Tiểu Nhạn hồi lâu, mới mỉm cười nói:
- Cữu ngưỡng đại danh đã lâu, thì ra đêm qua đánh chết Hồ trại chủ cứu Kỷ Quảng Kiệt cùng Bào A Loan chính là mi. Tốt lắm! Không trách thiên hạ truyền tụng ngươi đã gặp kỳ nhân, học nên một thân võ nghệ. Ngày nay mi đến đây mượn ngựa, được, ta sẽ tặng mi. Chúng ta nên kết giao bằng hữu.
Dứt lời, hắn cho người vào trong trang trại lấy ngựa. Tiểu Nhạn thấy thái độ của hắn như vậy, nộ khí trong lòng cũng giảm bớt, bèn nói:
- Ta khuyên bọn mi nên sớm giải tán mà rời khỏi chỗ này đi.
Bạch Mao Hổ nói:
- Mi an tâm. Hiện giờ Hồ trại chủ đã chết rồi, bọn ta cũng không thể chiếm cứ ở đây, nhưng bọn ta tự rời khỏi nơi này thì được, còn như có kẻ nào muốn đuổi bọn ta đi thì bọn ta không thể không liều mạng. Giang huynh, tuy giữa ta và huynh chỉ mới lần đầu sơ ngộ, nhưng hoàn cảnh của huynh thì ta hiểu rõ. Huynh là nhi tử của Giang Chí Thăng, phụ thân huynh bị Bào Côn Lôn sát tử, huynh học võ để tìm Bào lão đầu trả thù.
Bọn lục lâm ta ai ai cũng đều bái phục, ngay cả Hồ Lập đại ca còn sống cũng mong mỏi huynh đến, mong mỏi huynh tiêu trừ Bào Côn Lôn. Tuy nhiên, theo ta trộm nghĩ võ nghệ huynh quả thực cao thâm không lường, nhưng hành động của huynh lại trái lẽ thường của bậc hảo hán. Huynh không đi báo thù với Bào Côn Lôn, A Loan là tôn nữ của Bào Chấn Phi, huynh lại đi cứu họ. Huynh ân oán bất minh, sao đáng mặt anh hùng?
Tiểu Nhạn trợn mắt bước lên hỏi:
- Mi dám mắng ta à?
Bạch Mao Hổ sợ hãi lùi ra xa một bước, rồi cười nhạt nói:
- Huynh thị uy với bọn ta làm gì? Chúng ta trước nay vô thù oán, dù huynh có giết bọn ta thì cũng không thể bịt miệng người thiên hạ. Họ nói huynh đi tìm thù nhân nhưng không giết được nên phải giết thay kẻ khác. Điều này thật đáng làm trò cười cho người giang hồ.
Hắn lại vòng tay nói:
- Huynh nghĩ có đúng không? Nếu huynh đúng là hảo hán thì nên suy nghĩ kỹ.
Bào Côn Lôn đã giết phụ thân huynh, khiến mẫu thân huynh phải cải giá…
Tiểu Nhạn sợ nhất là phải nghe câu này, lòng chàng tức thời tràn ngập niềm bi thống.
Lúc này lâu la đã kéo đến ba, bốn con kiện mã đến cạnh. Bạch Mao Hổ để chàng chọn lựa, rồi nói:
- Huynh đừng khách sáo. Nếu huynh chẳng còn ngân lượng cũng xin nói ra. Ba trăm? Năm trăm? Bọn ta đều có thể dâng tặng vì lòng bọn ta rất bái phục huynh là một trang hảo hán. Nếu là lão Bào Côn Lôn thì không được đâu, dù lão có giết chết bọn ta cũng không tặng ngựa.
Tiểu Nhạn không phúc đáp một lời, chọn lấy một tuấn mã rồi lên ngựa chạy xuống núi.
Bạch Mao Hổ cùng bọn lâu la nói theo:
- Giang huynh, hẹn lần sau gặp lại!
Tiểu Nhạn không hề ngoảnh đầu, giận dữ thúc ngựa chạy thẳng. Vừa chạy chàng vừa nghĩ:
“Bạch Mao Hổ quả là một tên tặc nhân gian giảo. Hắn biết không địch nổi nên khích động ta đi giết Bào Côn Lôn. Tuy ý hắn hy vọng giữa ta và Bào Côn Lôn lưỡng bại câu thương, nhưng dẫu sao lời của hắn cũng hữu lý. Mười năm trước, Bào Chấn Phi đối xử với ta thực tàn nhẫn. Nếu không gặp được sư phụ, thì mười năm trước ta không chết ở trong núi thì cũng chẳng rõ giờ đây ta lưu lạc trôi nổi ra sao. Lòng ta không nên vướng bận việc khác mà chỉ nên nghĩ đến chuyện báo thù thôi”.
Thế là chàng ra khỏi sơn khẩu, phóng ngựa chạy nhanh, không lâu đã đến Ngưu Trấn.
Chàng vội vã xuống ngựa, chạy vào Mậu Gia điếm mời Chí Trung ra ngoài rồi hỏi:
- Quảng Kiệt đã về đây chưa?
Chí Trung nói:
- Sáng hôm nay đã về đến. Có tìm được tung tích A Loan không?
Tiểu Nhạn lắc đầu nói:
- Có lẽ nàng không phải thất lạc mà chắc đã bị mãnh thú nào đó sát hại rồi. Tiểu điệt tìm nàng khắp nơi mà không có.
Chí Trung chau mày nói:
- Điệt nhi vào phòng nghỉ ngơi một chút được không? Quảng Kiệt đang ngủ, điệt nhi có thể gọi hắn để mà nói rõ.
Tiểu Nhạn lắc đầu:
- Tiểu điệt cũng không cần nói với hắn. Nếu hắn không an tâm cứ bảo hắn vào Thái Lãnh tìm kiếm tỉ mỉ. Giờ Ngân Tiêu Hồ Lập đã chết, hắn cũng chẳng còn gì phải úy kỵ. Tiểu điệt hiện có việc gấp phải đi ngay.
Rồi chàng nhớ Chí Trung vào phòng lấy giùm bảo kiếm cùng hành lý. Nhận kiếm, Tiểu Nhạn định đi, Chí Trung theo nói:
- Tiểu Nhạn đừng vội. Ta có hai câu muốn nói với cháu.
Tiểu Nhạn đứng lại chờ đợi. Chí Trung nói:
- Đại anh hùng phải nên độ lượng. Tuy Bào Chấn Phi bình sinh tác sự quá nhiều nhưng nay tuổi đời lão quá cao, điệt nhi có thể tha một mạng già của lão được không?
Tiểu Nhạn nghe lời này sầm mặt hồi lâu mới nói:
- Được! Vì Lỗ sư thúc nói lời này nên khi gặp Bào Chấn Phi ta sẽ hạ thủ lưu chút tình.
Nói dứt lời, chàng ôm quyền từ biệt Chí Trung mà đi. Về phía nam không xa thì đến một khách điếm khác. Chàng hỏi thăm thì Câu Đao Thích Vĩnh đã về rồi.
Thì ra, Tiểu Nhạn từ trong điếm phòng ở Vũ Công huyện mà nhìn trộm vào phòng của Quảng Kiệt và A Loan, thấy phu phụ họ tình nghĩa thâm sâu nên an tâm, muốn lên đường đi đến Tử Dương huyện tìm huynh đệ họ Long rồi Bào Chấn Phi. Khi đến Ngưu Trấn, chàng gặp bằng hữu đã kết giao ở Xuyên Bắc mười năm trước là Câu Đao Thích Vĩnh.
Câu Đao Thích Vĩnh và Đoản Đao Dương Tiên Thái, Hoa Đao Lữ Hùng vốn là sư huynh đệ. Mười năm nay, Tiên Thái đã trở về cố hương ở Hà Nam, Lữ Hùng bị bệnh mà chết, Thích Vĩnh ở Lang Trung phủ Phúc Lập tiêu điếm, bất đồng ý kiến với Kim giáp thần Tiêu Đức Xuân nên từ chức tiêu đầu mà đi khắp nơi mưu sinh. Mấy năm nay thời vận của hắn bất thông nên phải đến Hán Trung mà mãi võ bán thuốc. Khi hắn đang ở Ngưu Trấn mãi võ thì gặp Tiểu Nhạn. Hai người đã lâu không gặp, mừng rỡ. Sự tình của Tiểu Nhạn, Thích Vĩnh đã nghe người ta đồn đại trên giang hồ, hắn vội dọn dẹp đồ nghề đến phòng Tiểu Nhạn cùng bày tiệc rượu ăn uống vui đùa với nhau. Hai người nhắc lại chuyện cũ mười năm qua, sau đó Thích Vĩnh hứa sẽ giúp Tiểu Nhạn đi báo thù.
Theo Thích Vĩnh suy đoán, Bào Chấn phi không thể đi xa, chỉ ẩn tàng những vùng phụ cận ở Trấn Ba. Vì lúc trai trẻ, Bào Chấn Phi trên giang hồ từng đắc tội với rất nhiều người, giờ lão già rồi tất không dám khinh xuất mà ra ngoài.
Tiểu Nhạn bèn nhờ Thích Vĩnh thay chàng thám thính, còn mình ở Tử Ngưu điếm chờ đợi. Thừa lúc Bào Chấn Phi không đề phòng mà tìm ra chỗ ẩn náu bắt lão để tránh đả thảo kinh xà nên khi Thích Vĩnh đi khỏi, chàng ngay cả cửa điếm cũng không xuất hiện.
Liên tiếp hai ngày, đến tối hôm đó, chàng bước ra ngoài lấy chút rượu để uống không ngờ gặp Lỗ Chí Trung.
Trước kia, Lỗ Chí Trung đối đãi với chàng rất tốt nên Tiểu Nhạn đến chào hỏi.
Chí Trung mới đem việc A Loan và Quảng Kiệt thọ thương và bị bắt ở Thái Lãnh nhất nhất kể với chàng, còn nói đã đưa Chí Cường về Đại Tán quan để trị thương và Chí Trung định đi về phía nam tìm gặp Bào Chí Văn để thương lượng sách lược đối phó.
Tiểu Nhạn vừa nghe A Loan rơi vào hang hổ, vô cùng lo lắng đi vội về Thái Lãnh giết Hồ Lập, cứu Quảng Kiệt và A Loan ra, không ngờ A Loan lại mất tông tích một cách kỳ lạ.
Chờ Câu Đạo Thích Vĩnh trở về, Tiểu Nhạn và Thích Vĩnh gặp nhau. Thích Vĩnh nói:
- Ta nghe là Bào lão đầu đã đi về Xuyên Bắc. Có người nói gặp lão ở phía bắc Kiếm Cát rồi đi về hướng Nam mà không rõ lão đi về đâu. Lão một mình đơn thân độc mã, còn huynh đệ họ Long vẫn còn ở Tử Dương nhưng giả ý nói đi bảo tiêu xa, kỳ thực là ẩn tàng trong thành Tử Dương, có điều chưa rõ ngụ ở nhà ai.
Tiểu Nhạn nghe nói nghiến răng, tức giận muốn giết ngay bọn họ. Tiểu Nhạn vòng tay đa tạ Thích Vĩnh và tạm biệt hắn rồi chàng vào phòng thu thập hành lý mà hôm qua để lại nơi này. Chàng ra cửa, lên ngựa rồi đi về hướng nam.
Ngựa chàng cưỡi vẫn là con tuấn mã mà Bạch Mao Hổ tặng. Tuấn mã này cao lớn, tuyền một sắc đen trông thật hùng dũng.
Tiểu Nhạn quyết định lộ trình đi về phía bắc tìm Bào Chấn Phi. Tuy chàng đã đáp ứng lời yêu cầu của Lỗ Chí Trung là không giết lão nhưng đến lúc đó chàng không biết mình có đủ bình tĩnh để hạ thủ lưu tình không?
Chương 15: Cương Phong Địch Chúng Tử Dương Tẩu Hào Hùng Ác Hổ Thương Nhân Xuyên Bắc Lai Cường Đạo
Tiểu Nhạn thúc ngựa một mạch ra đi, qua Hán Trung phủ cũng không dừng lại. Càng đi đường càng thu ngắn lại, giờ cách thành không xa nhưng lòng chàng nổi lên sự bi thương thống hận.
Chiều hôm nay, chàng đã đến Trấn Ba huyện. Có lẽ vì chàng đã đi qua Hán Trung, Trường An cho nên chàng cảm thấy cố hương nhỏ hẹp nhiều so với ngày trước.
Vì không muốn mọi người chú ý nên chưa vào thành đã xuống ngựa. Chàng vừa xuống ngựa dắt vào thành thì cảm thấy hai chân nặng trĩu dường như chàng đang mang vác một vật gì quá ư to lớn nặng nề, tâm can như bị dao cứa vào, hai mắt cũng cảm thấy cay cay.
Trên đường đi Tiểu Nhạn bắt gặp vài người quen trước kia nhưng giờ trông họ có vẻ già nua ốm yếu và như nghèo khổ đi nhiều nên hình dáng đổi thay không ít. Họ không nhận ra Tiểu Nhạn mà chàng cũng không tiện chào hỏi, chàng nghĩ có lẽ mười năm qua mình cũng khác xưa quá nhiều.
Chàng nén cơn xúc cảm đang dâng trong lòng, nỗi cảm động chua xót của một kẻ ly hương lưu lạc giờ trở lại thăm quê xưa, chàng chạy nhanh đến tiệm sắt Mã gia.
Đến đây, nước mắt chàng không ngăn được lăn dài. Chàng cột ngựa vào cổng rồi đi vào trong nhà.
Chỉ thấy bên trong tối âm u, lặng lẽ không có tiếng đập sắt “đinh đinh” như ngày nào. Trên tiệm cũng không có người. Chàng cảm thấy kinh ngạc, nặng nề đi vào trong tiệm, bi thống kêu lên:
- Di phụ! Di phụ!
Có một tiểu đồ đệ ngồi ở góc tường ám khói mà ngủ được. Tiểu đồ đệ này không quá mười hai mười ba tuổi cũng khoảng tuổi chàng trước đã ở đây. Lúc đó tên tiểu đồ đệ sực tỉnh giật mình hỏi:
- Khách quan mua gì?
Tiểu Nhạn nói:
- Ta không mua gì cả. Ta đến tìm Mã chưởng quỹ ở đây.
Tiểu đồ đệ đứng lên gọi vào trong:
- Chưởng quỹ có người tìm.
Bên trong dường như có tiếng đáp lời, Tiểu Nhạn đứng đó chờ đợi.
Chàng nhìn chung quanh thấy hàng hóa tiêu điều, cửa tiệm có vẻ suy sụp xơ xác, trên tường chỉ treo vài ba cái nồi. Trên nồi phủ một lớp bụi dầy.
Nhìn cảnh này, Tiểu Nhạn biết mấy năm nay cuộc sống của Mã Chí Hiền có vẻ khó khăn, lòng chàng càng thêm buồn bã.
Chờ một lát, bên trong bước ra một người vừa ốm vừa vàng, mặc chiếc áo đầy mảnh vá, bím tóc trên đầu cũng đầy bụi bặm. Tiểu Nhạn cơ hồ không còn nhận ra di phụ của mình. Nhìn giây lâu mới thấy mường tượng dáng dấp của Mã Chí Hiền xưa kia, nước mắt chàng rơi lã chã. Chàng khom mình thi lễ miệng gọi:
- Di phụ!
Chí Hiền vô cùng kinh ngạc, tròn xoe mắt hỏi:
- Mi phải chăng là Tiểu Nhạn?
Mặt còn đầy lệ, Tiểu Nhạn nghẹn ngào:
- Vâng! Điệt nhi là Giang Tiểu Nhạn đây. Di phụ, đã mười năm qua chúng ta chưa gặp.
Chí Hiền vui mừng, hoan hỷ reo lên, đến nắm cánh tay to khỏe chắc nịch của Tiểu Nhạn nói:
- Ây da! Mi đã về rồi. Hảo hài tử, con thực là có chí khí, ta bái phục, bái phục, bái phục. Nào, vào đây chúng ta chuyện trò.
Chí Hiền lôi Tiểu Nhạn vào trong, xem chừng hắn có vẻ khẩn trương. Vào trong phòng, hắn nhìn Tiểu Nhạn vui vẻ, mỉm cười thân ái.
Lúc này, Lý thị thê tử của Chí Hiền đang dọn cơm. Lý thị giờ đây trông cũng ốm yếu xanh xao hơn mười năm trước, quần áo cũng vá víu trông dáng vẻ như một lão phụ trung niên.
Nhìn thấy trượng phu dẫn một thanh niên cường tráng, vạm vỡ vào phòng, thập phần kinh ngạc. Chí Hiền rạng rỡ nói:
- Nội tử xem đây là ai, có nhận ra không?
Tiểu Nhạn vội vã khom người gọi:
- Di mẫu!
Lý thị giờ mới biết nhưng vẫn còn kinh ngạc hỏi:
- Đây là Tiểu Nhạn sao?
Chí Hiền cười đáp:
- Không phải nó thì là ai. Nội tử xem thật là một trang hảo hán. Không ngờ biểu di phu cũng có người điệt nhi tốt như vậy.
Nói đến đây trên mặt Chí Hiền hiện ra nét bi thương, nước mắt lưng tròng. Chí Hiền bảo:
- Nhạn nhi, con hãy ngồi xuống đây.
Tiểu Nhạn ngồi xuống chiếc giường xiêu vẹo chùi nước mắt hỏi:
- Gia cảnh di phụ mấy năm nay gần đây thế nào?
Chí Hiền khoát khoát tay thở dài:
- Đừng nhắc đến? Mấy năm nay hương thôn mất mùa, không hạn hán thì mất mùa, việc mua bán trong thành thì thật tiêu điều. Có lúc tiệm sắt này hai ba tháng không có mở lò. Mấy tên đồ đệ cũng đi hết rồi chỉ còn một tên coi nhà giùm. Ta suốt ngày ở nhà, ăn xong thì ra ngoài thành đến nhà Cung cử nhân Cung gia trang hộ vệ, như vậy mới có đủ bát cơm ăn không đến nỗi đói khát nhưng ta mấy năm nay thường bệnh hoạn tiền thuốc cũng hết sạch rồi.
Chí Hiền than thở một hồi rồi mới ngẩng đầu nhỏ giọng hỏi:
- Cuối cùng điệt nhi đã nhận ai làm sư phụ? Hiện giờ từ đâu mà đến đây? Có gặp Kỷ Quảng Kiệt, Bao lão đầu và Bào A Loan không?
Tiểu Nhạn gật đầu nói:
- Tiểu điệt có gặp qua rồi.
Chàng thê lương kể lại sơ lược tình hình mười năm nay mình đã trải qua.
Chí Hiền nghe qua, giơ tay lên tỏ ý bái phục chàng và nói:
- Hiện nay chốn võ lâm, anh hùng số một là Giang Tiểu Nhạn. Từ ngày tiểu nhi được lão sư phụ đó cứu thoát và nhận làm đồ đệ khiến Bào sư phụ ta và bọn môn đồ Côn Lôn phải đều nghiêm trang đề phòng sợ cháu học võ nghệ trở về báo thù. Sở dĩ Bào Côn Lôn gả A Loan cho Quảng Kiệt cũng chỉ vì muốn dựa vào tôn tử của Long Môn Hiệp mà đối địch với điệt nhi.
Tiểu Nhạn cũng thở dài nói:
- Việc này hiện giờ tiểu điệt chưa gấp. Cháu tin rằng Bào Chấn Phi, huynh đệ họ Long và tên Cổ Chí Minh họ không thoát khỏi mạng vong dưới kiếm của điệt nhi. Cháu thủng thẳng hành sự cũng được.
Chí Hiền lại chau mày nói:
- Nhưng ta khuyên cháu cũng đừng nên hạ độc thủ.
Tiểu Nhạn lặng thinh không nói, giây lâu chàng nói:
- Điệt nhi về đây một là để thăm di phụ, hai là cháu muốn gặp mẫu thân cùng bào đệ Tiểu Lộc.
Nói đến đây chàng lại chảy nước mắt. Mã Chí Hiền thở dài nói với thê tử:
- Mấy hôm trước nàng gặp biểu tỷ như thế nào?
Lý thị đáp:
- Bệnh tình không thuyên giảm, ho nhiều lắm. Tiểu Lộc cũng không nghe tin tức.
Việc mua bán của Đổng Đại không trôi chảy, Phúc nhi, Thọ nhi đều ốm yếu xanh xao.
Chí Hiền thở dài an ủi:
- Điệt nhi đừng có buồn. Mẫu thân cháu cải giá với Đổng Đại là vạn bất đắc dĩ.
Vì mấy mẫu đất mà phụ thân cháu lưu lại và một gian nhà nhỏ đều đã bị bà con chiếm đoạt bán hết rồi. Mẫu thân cháu lúc đó không thể nào chịu nổi sự cùng khổ.
Tiểu Nhạn gật đầu nước mắt rưng rưng.
Chí Hiền lại nói:
- Tiệm lụa của Đổng Đại đã đóng cửa mấy năm về trước. Lão phải cùng mấy đồng bạn buôn bán ven đường cũng kiếm đủ cơm ăn. Còn Tiểu Lộc giờ cũng khoảng mười hai, mười ba tuổi rồi. Một năm trước có người đã nhận đưa Tiểu Lộc sang Hà Đông đi buôn bán. Nghe nói người khách bán gạo này họ Khuất. Năm rồi có người mang thư nhưng giờ đã
bặt tin. Mẫu thân cháu sau khi đến nhà họ Đổng lại sinh ra ba hài tử, chết mất một, còn lưu lại hai trẻ một là nữ tên A Phúc năm nay cũng được tám, chín tuổi. Lúc mẫu thân cháu mới cải giá, tính tình còn dễ chịu, sau đó ngày thêm âu sầu và tính khí Đổng Đại hung hăng khiến mẫu thân cháu bi thương đến sinh bệnh cũng đã hai, ba năm rồi. Nếu điệt nhi gặp chắc chẳng nhận ra. Nửa tháng trước mẫu thân cháu có đến đây, nghe ta nói cháu giờ học võ đã thành định trở về Trấn Ba để báo thù. Mẫu thân cháu chỉ khóc nói là muốn gặp tiểu điệt.
Nghe Chí Hiền kể qua tình cảnh mẫu thân, Tiểu Nhạn lòng đau như cắt, nước mắt như mưa đến nỗi hai tay áo ướt cả.
Lý thị đứng cạnh cũng khóc nói:
- Mẫu thân cháu cũng thật đáng thương, điệt nhi cũng đừng nên trách người mười năm nay không quan tâm đến cháu. Lúc đó, Bào lão đầu hại các ngươi, tuy mẫu thân cháu đã gả cho Đổng Đại nhưng người thường nằm mộng thấy phụ thân cháu. Mẫu thân cháu nói hồn phụ thân cháu hiện giờ ở trong Nam Sơn còn chưa siêu thoát, vẫn thường tìm mẫu thân cháu ở trong mộng van cầu cơm ăn vì bị đói khát lạnh lẽo.
Tiểu Nhạn khóc lớn lên. Chí Hiền cũng khóc theo nhưng rồi khoát tay nói:
- Chuyện này khó tin, vì người đã chết mười hai năm rồi lẽ nào còn chưa siêu thoát. Mộng mị là do mình nghĩ ra thôi. Vì mẫu thân cháu không quên được tình cảnh lúc phụ thân cháu đào thoát đã bốc cơm nguội mà ăn nên mới nằm mộng như vậy.
Tiểu Nhạn cố nén tiếng khóc nói:
- Điệt nhi mong cầu di phụ tìm mẫu thân cháu đến đây giùm để mẫu tử tương hội.
Chí Hiền nói với thê tử:
- Nàng đi mau, thừa lúc Đổng Đại không có ở nhà nói biểu tỷ đến đây.
Lý thị chùi nước mắt rồi vội vã đi. Chí Hiền tìm dưới gầm bàn một bình rượu nhỏ nói:
- Tiểu Nhạn chờ ở đây để ta đi mua rượu chúng ta cùng uống.
Tiểu Nhạn vội lấy trong người ra một ít ngân lượng nói:
- Tiểu điệt có tiền đây, di phụ cầm lấy mua rượu.
Chí Hiền tiếp lấy ngân lượng cầm bình mà đi. Tiểu Nhạn bước ra ngoài dẫn ngựa vào trong hậu viện, hành lý để nguyên trên yên, chỉ lấy ra mấy tờ ngân phiếu. Đây là những tờ ngân phiếu chàng đã thắng bạc ở Lang Trung mười năm trước. Vì Lợi tiền trang có danh tiếng lớn nên bây giờ vẫn có thể dùng được.
Chờ giây lát, Chí Hiền mang rượu về còn mua thêm thịt và bánh nướng đặt lên bàn nói:
- Tiểu Nhạn, cháu uống rượu đi.
Tiểu Nhạn gật đầu, nhưng vì nóng lòng gặp mẫu thân nên chàng không thể nuốt trôi thức ăn. Chí Hiền một mặt uống rượu, một mặt kể chuyện thăm hỏi Tiểu Nhạn.
Chẳng bao lâu sau, ngoài cửa chợt vang lên tiếng khóc thê thảm của phụ nhân.
Lý thị và Hoàng thị mẫu thân Tiểu Nhạn vừa đi vào vừa khóc nức nở.
Hoàng thị vừa thấy Tiểu Nhạn hai tay đã ôm chặt lấy chàng khóc không thành tiếng, ho sặc sụa vừa nói:
- Hài tử, mẫu thân không ngờ còn gặp mặt hài nhi. Hài tử của ta, mẫu thân thực có lỗi với con. Hài tử đừng nên nhận mẫu thân này nữa mà đi mau báo thù cho phụ thân con. Phụ thân của hài nhi bị Bào lão đầu giết thảm, oan hồn không tiêu tán thường thường thác mộng với ta. Hài tử mau đi giết Bào lão đầu báo phụ cừu thì phụ thân con mới có thể thác sinh. Để đệ đệ của con cũng theo người học buôn bán, nó cũng thực đáng thương. Sau khi báo thù xong, hài nhi nên đến Hà Đông mà tìm bào đệ. Còn mẫu thân … mẫu thân … hài nhi đừng màng đến làm chi nữa. Ta không đáng được coi là hiền mẫu. Mẫu thân giờ bệnh cũng sắp chết rồi. Hôm nay được gặp lại hài tử, mẫu thân mãn nguyện rồi dẫu có chết cũng cam tâm.
Nói chưa dứt, ho khùng khục rồi phun ra một ngụm đờm, Tiểu Nhạn đưa mắt nhìn mẫu thân dáng vẻ yếu đuối tiều tụy như vậy, chàng nghẹn ngào, nước mắt cứ tuôn rơi mà không khóc thành tiếng, chàng cố nén đau buồn, quẹt nước mắt khảng khái nói:
- Mẫu thân bất tất phải lo lắng. Hài nhi có năm mươi lượng, mẫu thân để dành mà thuốc thang trị liệu. Mẫu thân không thể chết, phải sống để sau này hài nhi và đệ đệ báo hiếu cho mẫu thân. Còn thù hận nhất định phải báo, mẫu thân không phải bận tâm.
Tiểu Nhạn lại lấy năm mươi lượng giao cho Chí Hiền. Rồi chàng quỳ xuống đất hướng về phía mẫu thân, Chí Hiền, Lý thị khấu đầu bái lạy, xong chàng đứng lên từ tạ ba người bước ra ngoài.
Chí Hiền đi theo giữ lại:
- Tiểu điệt vội gì, ngồi lại chuyện trò với mẫu thân vài câu hãy đi.
Tiểu Nhạn lắc đầu:
- Không lâu đâu, điệt nhi sẽ trở về.
Mặt chàng trắng bệch, nghiến răng nhảy lên lưng ngựa đi. Chí Hiền chạy theo gọi lớn:
- Tiểu Nhạn, ta còn mấy câu muốn nói.
Tiểu Nhạn không ngoảnh đầu lại, nghiến răng vung roi ngựa phi vụt đi. Ra khỏi Nam môn, chàng cho ngựa chạy thẳng đến Bào gia thôn.
Mười hai năm nay, cố hương đã có nhiều thay đổi, nhà cửa phần lớn đều rách nát, xiêu vẹo lộ rõ sự nghèo khổ.
Đến trước cửa Bào gia thấy cảnh vật cũng khác xưa nhiều. Khoảng sân luyện võ trước cửa vắng vẻ.
Nhìn nơi đây bao nhiêu nỗi nhục nhã, đau đớn bi thiết khó nén ngọn lửa căm thù bừng bừng trỗi dậy như muốn trào ra ngoài thiêu đốt hết dãy nhà kia.
Chàng nhảy xuống ngựa, tuốt kiếm chạy nhanh đến trước cửa dùng nắm tay đấm mạnh mấy cái, bên trong có tiếng nói của một nam nhân:
- Ai đó?
Tiểu Nhạn nghiến răng nói:
- Ta đây.
Người bên trong lại hỏi:
- Mi là ai?
Tiểu Nhạn ngửa mặt cười lạnh lẽo:
- Ta họ Giang. Mau mở cửa.
Người bên trong không đáp cũng không mở cửa. Tiểu Nhạn bước lùi hai bước cầm kiếm đứng đó.
Thoáng đã thấy có người leo lên đầu tường. Người này ước khoảng ba mươi, mặt vàng, thân mặc áo màu trắng, tay cầm một khẩu Côn Lôn đao hỏi văng xuống:
- Mi đến đây làm gì?
Tiểu Nhạn lớn tiếng:
- Ta là Giang Tiểu Nhạn. Mau bảo Bào Chấn Phi ra đây.
Người trên tường sợ hãi biến sắc nói:
- Ở đây không còn ai. Lão sư phụ rời nhà đã hai tháng rồi.
Tiểu Nhạn lại hỏi:
- Ngươi làm gì ở đây?
Người đó trả lời:
- Ta là Trương Chí Tài, môn đồ của Côn Lôn. Sư phụ bảo ta ở đây trông nom nhà cửa.
Tiểu Nhạn thấy người này có chút đởm lược nên nói:
- Được! Ngươi chỉ là người xem chừng nhà, vậy thì vô can với ngươi nhưng mau mau mở cửa cho ta vào trong khám nhà.
Chí Tài đứng trên đầu tường lấy lại bình tĩnh hoành đao cười nhạt:
- Tiểu Nhạn, mi không xem vương pháp ra gì? Mi cầm kiếm đến đây tìm người mang lòng bất thiện. Nếu ta kêu quan nhân đến, lập tức mi có thể bị bắt giữ vào nha môn. Ta báo trước cho mi biết hãy đi mau cho. Có Trương Chí Tài ở đây, mi muốn vượt tường vào Bào gia không dễ đâu.
Tiểu Nhạn nghe lời này tức thời biến sắc, cầm kiếm nhảy vọt lên tường. Chí Tài vội vung đao phạt ngang chân chàng. Tiểu Nhạn đưa kiếm ra đỡ đồng thời đá một cước.
Chí Tài té lăn xuống đất, đao rời khỏi tay.
Tiểu Nhạn thoáng nghe phòng phía bắc có tiếng phụ nhân hét chói tai, nên chạy đến hét lớn:
- Bào Chí Lâm, mau ra đây. Tiểu đại gia chờ mi.
Lúc này phía sau lại có tiếng gió nổi lên. Tiểu Nhạn vội vã quay người v
vung kiếm, chỉ nghe “keng” một tiếng thì kiếm và Côn Lôn đao chạm nhau. Thì ra Chí Tài từ dưới đất đứng lên cầm đao đánh lén.
Thế là hai người giao thủ với nhau.
Chí Tài vốn là nhân tài đời sau, gần đây không ngừng khổ luyện võ công, tài nghệ đã vượt khỏi Chí Cường và huynh đệ họ Long nên hắn triển khai đao pháp không để một kẽ hở, loang loáng dũng mãnh chém vào Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn không muốn giết hại hắn nên thường tránh né, chỉ thỉnh thoảng đá ngã hắn mà thôi. Còn kiếm pháp chàng sử dụng chừng mực, bình thường không có chút ác hiểm, kiếm quang lạnh lẽo chỉ ngăn đỡ khiến Chí Tài khó có thể tấn công.
Nhưng trao đổi năm, sáu hiệp, Tiểu Nhạn không còn nhẫn nại được nữa, vung bảo kiếm phi thân lên trước. Kiếm thứ nhất đã áp chế đao đối phương, kiếm thứ hai nghiêng nghiêng đâm xuống phía dưới nhanh như chớp, Chí Tài khó bề tránh được, chân trái hứng chịu một kiếm, máu tuôn xối xả ngã nhào xuống đất.
Tiểu Nhạn nói:
- Đừng trách ta độc ác chỉ vì mi tự chuốc lấy khổ thôi.
Chí Tài nghiến răng muốn đứng lên liều mạng với Tiểu Nhạn, nhưng đã bị Tiểu Nhạn đá một cước văng đi rất xa. Thuận thế, Tiểu Nhạn đá thanh đao bay lên nóc nhà, sau đó chàng cầm kiếm chạy về phía phòng của Bào Chí Lâm hét:
- Chí Lâm! Mau ra đây!
Nữ nhân trong phòng kêu thét thất thanh, Tiểu Nhạn đứng dừng lại thở dài nói vào bên trong:
- Nữ nhân bên trong phòng đừng sợ, ta không đả thương đâu. Chí Lâm, mau ra đây. Chí Lâm, mi có còn nhớ ngày xưa mi đã từng lăng nhục ta như thế nào không, giờ đây rồi cũng có ngày này mi sợ rút đầu rút cổ. Mau chui ra đây.
Tiếng nữ nhân bên trong khóc nói:
- Tiểu Nhạn, tha cho hắn đi.
Tiểu Nhạn rít lên:
- Không thể tha, lúc nhỏ hắn đối xử tàn tệ với ta hơn cả chó mèo, ta nhất định không tha thứ cho hắn.
Dứt lời, chàng phóng một cước đá bật cánh cửa phòng vào bên trong. Nữ nhân kinh sợ nhảy lên giường, trợn mắt nhìn Tiểu Nhạn thất thần kêu.
Dưới gầm giường lộ ra một đôi chân mang hài lụa, Tiểu Nhạn đưa tay chụp lấy chân Chí Lâm kéo lôi ra. Chí Lâm mặt không còn chút huyết sắc run lập cập, rên rỉ van cầu:
- Tiểu Nhạn, tiểu gia gia tha mạng cho tiểu nhân đi. Trước kia ta ngu muội muốn giết gia gia nhưng không dám. Ây da, ây da xin tha mạng, xin tha mạng.
Bảo kiếm của Tiểu Nhạn căm hận khoa lên, đột nhiên chàng thấy y phục của Chí Lâm vẫn ăn mặc như xưa nhưng lưng còng lên vì hắn đang bò dưới đất nếu nhìn chẳng khác chi lạc đà. Nhìn thấy hắn tàn phế như vậy, Tiểu Nhạn không nhẫn tâm hạ độc thủ bèn đá hắn một cước nói:
- Giết mi chỉ làm bẩn kiếm ta.
Chí Lâm bị đá không ngừng xuýt xoa đau đớn nhưng không dám lên tiếng. Lữ thị, thê tử của hắn ngồi sát góc tường không ngừng khấu đầu xin tha mạng.
Tiểu Nhạn khoát tay nói:
- An tâm. Ta không hành động ác độc với người khác. Mười năm trước, mi cũng biết Bào gia phụ tử họ đối xử với ta tàn độc như thế nào.
Lúc này, Chí Tài ở bên ngoài thọ thương không đứng dậy được nhưng không ngừng lớn tiếng mắng vào, khiến Tiểu Nhạn không nhịn nổi, nhảy ra khỏi phòng, thì thấy một bóng người từ trên tường nhảy xuống, đó là Chí Hiền.
Chí Hiền mặt đẫm mồ hôi, thở hổn hển nói:
- Tiểu Nhạn, đừng quá đáng như vậy. Giết chết phụ thân cháu chỉ có mình Bào Chấn Phi còn gia quyến của lão vô can. Cháu không nên giết người bừa bãi như vậy.
Tiểu Nhạn hòa dịu nói:
- Đương nhiên điệt nhi không thể cuồng sát người vô tội. Chí Tài vì cố chấp cứ theo hạ độc thủ tiểu điệt mới hạ độc thủ với hắn.
Chí Hiền đến gần nhẹ nhàng khuyên Chí Tài đừng nên chửi rủa nữa, rồi Chí Hiền bước vào phòng. Bào Chí Lâm lúc này bò dưới đất không ngừng van lạy:
- Mã sư ca, mau xin Giang gia gia tha mạng cho đệ. Trước kia là đệ sai đáng chết, từ nay không dám điên rồ như vậy nữa.
Tiểu Nhạn cầm kiếm cười nhạt nói:
- Nếu ta giết người tàn phế như ngươi ta thực lấy làm xấu hổ nhưng ngươi phải báo rõ năm đó kẻ nào sát tử phụ thân ta.
Bào Chí Lâm nói:
- Cũng khó nói rõ. Có người nói đao đó là của Long Chí Khởi nhưng Chí Khởi về sau lại nói giết Giang Chí Thăng là phụ thân ta tự thân hạ thủ, còn hắn vô can.
Chí Hiền nói:
- Ta nghĩ sư phụ sau này rất là nhân ái từ thiện, lão quyết không đích thân giết người.
Tiểu Nhạn nghiến răng nói:
- Bất luận thế nào ta cũng không thể tha mạng chúng.
Lúc này Chí Tài bị thương ngồi trong viện, cười nhạt nói với Tiểu Nhạn:
- Họ Giang kia hành sự đừng quá tàn độc. Nếu mi giết sư phụ ta sau này cũng có người thay lão nhân gia mà báo thù.
Chí Hiền cũng chạy theo vội nói:
- Điệt nhi khoan đi, ta có vài lời muốn nói. Nếu cháu gặp sư phụ ta chỉ cần hỏi lão là được rồi, ngàn lần không được …
Tiểu Nhạn khoát tay nói:
- Di phụ yên tâm, điệt nhi biết xử sự.
Nói xong, chàng thu kiếm vượt tường nhảy ra khỏi viện. Ra khỏi Bào gia thôn phi ngựa về phía nam. Mới đi không xa chợt nghe có thanh âm trong trẻo, tươi vui vang lên.
Tiểu Nhạn dừng cương ngựa ngoảnh đầu nhìn xem.
Thì ra trên đường có mấy nữ hài đang tung tăng hát mấy bài sơn ca lưu hành nơi đó. Tiểu Nhạn bất giác thẫn thờ. Bọn nữ hài có năm người, y phục đều màu xanh, tay mỗi người xách một giỏ trúc. Tiểu Nhạn gặp chúng như nhìn thấy A Loan trong đám đó.
Năm nữ hài tử đã từ đường nhỏ bước lên mộc kiệu. Bọn chúng nắm tay vừa cười vừa hát. Có đứa ngẩng đầu có đứa nghiêng đầu, cúi mặt trông đều có vẻ hoan hỷ nhưng chẳng ai trong bọn chúng nhìn thấy Tiểu Nhạn. Chàng xuống ngựa cười nói:
- Hát hay lắm.
Bọn chúng đều dừng lại, đưa mắt ngây thơ nhìn Tiểu Nhạn có vẻ ngạc nhiên.
Tiểu Nhạn cười dắt ngựa đến gần. Có hai tiểu nữ hài sợ quá cầm giỏ mà chạy còn lại ba tiểu hài đứng bất động nhưng cũng sợ đến tái cả mặt mày. Riêng Tiểu Nhạn càng tỏ ra hòa nhã dịu dàng nói:
- Các tiểu cô nương đừng sợ. Ta chỉ muốn thăm hỏi chút chuyện. Ta cũng là người của thôn này.
Ba tiểu hài đồng thanh nói:
- Không phải, bọn ta không biết mi.
Tiểu Nhạn nói:
- Ta là người ở Bào gia thôn nhưng đã ra ngoài hơn mười năm giờ mới trở về. Ta muốn hỏi thăm lão già râu bạc ở Bào gia giờ ở đâu?
Mấy tiểu hài vừa nghe đến Bào Côn Lôn tất cả dường như đều nổi nóng. Có hai đứa nói:
- Ai biết lão. Bọn ta không biết lão.
Một nữ hài khác nói:
- Bào Côn Lôn đã đi khỏi rồi. Ngay tôn nữ của lão cũng đi luôn. Lão không phải là người tốt nhưng tôn nữ của lão thì tốt.
Hai tiểu hài kia nắm tay cô bé này giựt giựt ý muốn ngăn không cho nói Bào Côn Lôn không tốt, dường như nếu gặp Bào Côn Lôn thì sẽ gặp nạn vậy. Bắt gặp tình hình như vậy, Tiểu Nhạn bất giác nổi giận. Mười năm nay Bào lão đầu quyết vẫn hung hãn, bọn đồ đệ của lão vẫn hoành hành. Lại nghe mấy nữ hài này nhắc đến Bào A Loan khiến chàng vừa nhớ vừa đau lòng liền hỏi:
- Tôn nữ của Bào Côn Lôn không phải là A Loan sao? Nàng ta thế nào? Các ngươi có thể nói với ta không?
Dù Tiểu Nhạn cười thân thiện nhưng ba nữ hài nắm tay nhau nhìn chàng như muốn hoài nghi, đưa đôi mắt trong trẻo nhìn chàng không đáp một câu. Tiểu Nhạn chỉ thầm thở dài nhìn chung quanh dường như đang tìm kiếm một vật gì xa xưa. Chàng cảm thấy mười năm ly hương không những người nơi này cũng khổ hơn trước mà phong cảnh cũng biến đổi nhiều.
Chàng tìm kiếm hồi lâu mới thấy về phía bắc một gốc liễu già nằm ven đường, dưới ánh tịch dương nhành liễu rủ nhẹ nhàng. Tiểu Nhạn dẫn ngựa đi đến gần xem xét thì quả nhiên không sai. Đây chính là gốc liễu mà năm xưa mình đã từng leo lên lấy con diều giấy xuống cho A Loan.
Cây cao nhưng đã già rồi, đất cũng cằn rồi.
Điều khiến chàng kinh ngạc là trên thân cây có nhiều vết đao chém. Rõ ràng đây không phải là vết tích của tiều phu lưu lại mà do người cầm đao hay cầm kiếm chém, chàng giật mình.
Lúc này năm tiểu nữ hài nắm chặt tay nhau đứng một bên nhìn Tiểu Nhạn như nhìn một người dường như không tốt. Bọn chúng cẩn thận đề phòng, muốn chạy vào trong thôn.
Tiểu Nhạn lại cười với bọn chúng, ôn tồn nói:
- Các ngươi đừng sợ. Ta trước kia đã từng là hài tử ở thôn này. Khi trở về ta sẽ đến nhà thăm các ngươi. Có lẽ sẽ có người nhìn ra Giang Tiểu Nhạn này.
Bọn tiểu hài vừa nghe danh tánh Tiểu Nhạn đều kinh ngạc vây chặt lấy chàng, ngẩng mặt lên hỏi:
- Người là Tiểu Nhạn sao?
Tiểu Nhạn gật đầu cười nói:
- Đúng rồi. Ta ly hương đã hơn mười năm, giờ mới trở về. Hầu hết phụ thân các ngươi lúc nhỏ đều chơi đùa với ta.
Có một nữ hài nhảy lên nói:
- Người trong thôn đều biết thúc thúc. Nghe nói sư thúc ra ngoài tìm người học võ muốn trở về báo thù giết hết bọn Bào lão đầu. Bọn chúng đều rất sợ nên Bào lão đầu mới chạy như vậy.
Tiểu Nhạn trong lòng vô ngần cảm khái, cười hỏi:
- Người trong thôn nói ta tốt hay là xấu?
Nữ hài đó nói:
- Ai cũng nói thúc thúc là người tốt, đều mong mỏi thúc thúc mau trở về. Bọn họ Bào cùng nhi tử và đồ đệ của lão đáng căm hận dựa thế ép người.
Lòng Tiểu Nhạn lại phẫn hận thầm nghĩ:
“Thì ra Bào gia phu tử ỷ thế hiếp người thọ hại bởi chúng không chỉ mình gia đình ta. Đáng ra ta phải giết cả nhà lão để trừ hại cho dân lành”.
Vì thế, chàng muốn tức khắc quay lại Bào gia thôn giết chết Bào Chí Lâm. Có một tiểu hài phẫn hận nói:
- Đáng căm hận nhất là họ Long. Hắn chính là Thôi Sơn Hổ được Bào lão đầu bảo hộ. Họ Long đó thường đến đây cưỡi ngựa nghênh ngang. Năm rồi, vì mua đất, lão đã đánh Trần thúc thúc còn không cho la lên.
Một nữ hài khác mặt âu sầu nói:
- Phụ thân bị Long lão tặc đánh cho tàn phế. Sau đó Bào lão đầu hỏi tại sao lại như vậy. Phụ thân nói vì ngồi trên lưng lừa không cẩn thận bị té xuống chứ không dám nói họ Long đánh đập.
Tiểu Nhạn đứng đó tức giận mặt trắng bệch nói:
- Trở về báo với phụ mẫu của các cháu Giang Tiểu Nhạn ta sẽ giết chết Bào lão đầu và huynh đệ họ Long trừ hại cho mọi người.
Rồi chỉ gốc liễu hỏi dò:
- Gốc liễu này ai chém vậy? Cây to thế này để người qua đường có nơi dừng chân nghỉ mát có phải tốt không? Vì sao lại cầm đao chém ngang chém dọc như thế?
Bọn nữ hài đồng loạt nói:
- Đó là do Bào A Loan tôn nữ của Bào lão đầu chém đó. Cô nương ấy mỗi ngày cưỡi ngựa đến đây chém một đao vào gốc liễu có lúc chém đến hai, ba đao. Nàng ta hận ghét nhất gốc liễu này.
Tiểu Nhạn nghe nói thình lình lòng nhạt lại, trán nổi gân xanh, thầm nghĩ:
“Ây da! Thì ra A Loan luôn luôn hận ta, không chỉ hận ta mà còn hận luôn cả gốc liễu. Hận ghét thuở thiếu thời của hai đứa, vậy thì ta còn mãi nghĩ đến nàng làm gì?
Nàng ở Thái Lãnh sống chết ta thực không nên màng tới”.
Thế là chàng tự cười lấy mình rồi phóng lên tuấn mã, mỉm cười với mấy nữ hài rồi vung roi phi ngựa về hướng nam.
Bọn nữ hài vẫn đứng phía sau mà nhìn theo bóng chàng. Tiểu Nhạn càng lúc càng xa lòng càng lúc càng nóng nảy.
Hoàng hôn. Mây như nhuộm đỏ một màu máu, gay gắt chiếu sáng cả một góc núi.
Chàng từ Trấn Ba đi Tử Dương phải qua Ba Sơn không xa quá bảy, tám chục dặm đường đi. Tiểu Nhạn có thể đi thẳng nhưng vì trời đã muộn rồi. Vả chăng cả ngày hôm nay chàng trải qua bao nỗi bi thống, khích động, phẫn hận khiến cho đầu óc nặng nề, tâm can nóng nảy.
Tiểu Nhạn nghĩ thầm:
” Hôm nay phải nhẫn nại tìm một chỗ dưỡng thần, ngày mai hãy đến Tử Dương kết liễu tính mệnh huynh đệ họ Long và Cổ Chí Minh. Sau đó hãy tìm Bào Côn Lôn.
Ý đã định, chàng đến một thị trấn nhỏ tìm một khách điếm, dắt ngựa đi vào.
Chàng lấy hành lý và bảo kiếm còn con ngựa giao cho tiểu nhị chăm sóc. Chàng chọn lấy một đơn phòng để nghỉ qua đêm. Điếm nhị đem cơm rượu và thức ăn lên. Tiểu Nhạn dùng cơm xong vì trong phòng rất nóng nên cởi áo ra. Đột nhiên từ trong áo rớt ra một vật, thì ra đó là chiếc tú hài mà chàng nhặt được ở trong khe suối, chàng giận dữ ném xuống đất, mắng:
- A Loan, nàng là một nữ nhân không có lương tâm.
Chàng tức tối ngồi trên giường một hồi, âm thầm nghĩ:
“Ta là thù nhân đối nghịch với nhà nàng, nàng không tốt với ta. Đáng lý ta phải hận nàng mới đúng. Hơn nữa …”.
Tiểu Nhạn lại nhớ đến ba, bốn lần gặp nàng gần đây. Một lần trên Bá Kiều, một lần ở Trường An, lần cuối cùng là ở Thái Lãnh. Việc khiến chàng khó quên nhất là tình cảnh đêm đó, chàng vào ngục cứu nàng và nói:
- A Loan mau theo ta đi.
Nàng đã thê thảm nói:
- Ta theo mi đến đây. Nếu không phải vì mi, ta đâu đến nỗi lưu lạc đến chốn này.
Sau đó mình đã kẹp chặt lấy nàng đem lên núi đặt trên tảng đá đó, nàng chỉ một mực khóc lóc mà thôi. Nàng đâu phải là người không có lương tâm. Nàng đâu quên sự tình hai đưa lúc nhỏ nhưng việc đã đến như vầy thực ra nàng cũng không còn cách nào nữa cả.
Nghĩ như vậy, chàng cảm thấy được an ủi. Nỗi căm hận A Loan hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại nỗi buồn. Chàng nghĩ A Loan chưa chết nên chàng hận mình không thể trở về Thái Lãnh mà cưới nàng.
Tiểu Nhạn âu sầu mắt chăm chăm nhìn ngọc đèn leo lét trên tường không kìm được mấy giọt nước mắt, bèn nghĩ:
“Thật hết phương giải quyết, giữa ta và nàng không tròn nợ duyên, kiếp này không thể chung thân. Bất kể nàng sống hay chết, cả đời này ta không lấy vợ”.
Chàng bước xuống giường, lượm chiếc tú hài vừa rồi đến ngọn đèn xem xét cẩn thận. Thấy tú hài màu hồng thêu rất tinh xảo, có lẽ do đích thân A Loan thêu.
Tiểu Nhạn cảm thấy ái mộ và nhớ nhung tha thiết nàng, tâm niệm biến chuyển tự nghĩ:
“Như vậy không xong rồi. Đại trượng phu hành sự phải quyết đoán, huống hồ A Loan đã gả cho Kỷ Quảng Kiệt. Dù A Loan chưa chết ta cũng không thể cưỡng chiếm nàng. Bằng như nàng mất rồi, ta phải nghĩ cách giao trả tú hài này cho Kỷ Quảng Kiệt”.
Thế là, chàng đặt tú hài trở vào bao hành lý, rồi lên giường nằm ngủ.
Đến hôm sau, Tiểu Nhạn dậy sớm, tinh thần sảng khoái, nỗi thù hận trong lòng đã giảm bớt.
Dùng cơm sáng xong, chàng thu dọn hành lý, trả tiền phòng dắt ngựa thuận theo đường Triều Dương mà đi.
Năm đó chàng đã từng theo Lang Trung Hiệp đến Tử Dương, nên đường phố nơi này chàng rất thông thuộc. Ngựa chạy rất nhanh, không đến ba giờ đã tới Tử Dương.
Chàng biết Thanh Viễn tiêu điếm của họ Long là ở cửa thành tây. Chàng đến nam môn trước tìm một khách điếm, chàng dặn điếm gia đừng lấy yên cương xuống, chỉ cho ngựa ăn uống là được, còn chàng có việc phải làm lát sau quay lại. Điếm gia nghe vậy đồng ý.
Tiểu Nhạn lấy bảo kiếm đi ra khỏi điếm. Tiểu nhị rất chú ý đến chàng, còn Tiểu Nhạn lại có vẻ thong dong không giống dáng dấp của người có việc gấp.
Rời khỏi nam môn đi về phía tây, thoáng chốc đã đến trước cửa Thanh Viễn tiểu điếm. Thấy nơi đây thực là náo nhiệt, xe ngựa ngừng rất nhiều, có kẻ nhân dạng như tiêu đầu tới lui ra vào.
Tiểu Nhạn cầm bảo kiếm hiên ngang tiến vào, có mấy người chặn lại hỏi:
- Mi muốn làm gì? Có chuyện gì?
Tiểu Nhạn đẩy giạt mọi người ra, bước vào trong. Thấy có một người đi ra, Tiểu Nhạn nhận ra người này chính là Cổ Chí Minh, là một trong những kẻ thù sát phụ.
Mười năm trước Lang Trung Hiệp đến đây đã từng đả thương hắn. Hiện giờ nhìn thấy dáng vẻ thì biết thương thế hắn đã lành rồi.
Tiểu Nhạn phóng lên trước, muốn giết chết Cổ Chí Minh. Chàng cầm kiếm mắng:
- Họ Cổ kia, mi nhận ra ta không?
Cổ Chí Minh nghe hỏi đột ngột, chợt biến sắc mặt. Quan sát hồi lâu, bủn rủn chân tay nói:
- Ây da! Giang Tiểu Nhạn!
Lúc này những người bên cạnh đã vây lấy Tiểu Nhạn, tay lăm lăm cương đao.
Còn Chí Minh sợ hãi biến sắc khoát tay ra hiệu mọi người.
Tiểu Nhạn đưa cao bảo kiếm, cười nhạt nói:
- Tùy các ngươi, có bao nhiêu cứ xông hết lên, ta không sợ đâu. Nhưng ta cũng báo cho biết, ta đến đây để tìm Long Chí Đằng, Long Chí Khởi và Cổ Chí Minh vô can đến người khác. Ta quyết không hại đến kẻ vô oán vô thù. Nhưng nếu các ngươi không nhìn ra tốt xấu, cứ ngoan cố ngăn kiếm của ta, thì đó là tự mình tìm đến cái chết.
Bọn này vốn là đồ tử đồ tôn của Côn Lôn phái vừa rồi không biết người cầm kiếm xông vào là ai, giờ nghe nói là Giang Tiểu Nhạn thì cả bọn không dám tiến gần, chỉ trợn mắt nhìn chàng, dường như muốn nhìn rõ dung mạo của nhân vật làm cho Côn Lôn phái mất ăn mất ngủ có chỗ nào khác thường.
Mặt Chí Minh vẫn tái mét, lắp bắp nói:
- Giang gia, đừng vội! Muốn báo thù cũng để ta nói đã. Mấy hôm trước ta biết Giang gia đến đây, người khác đã chạy hết nhưng ta không trốn chạy vì ta tự vấn lương tâm không có gì hổ thẹn. Giang Chí Thăng là phụ thân của thiếu gia, cũng là sư đệ của ta. Hắn phạm lỗi, Bào lão sư phụ bảo Chí Hiền tìm chúng ta. Mệnh lệnh sư phụ ta không dám không tuân nhưng lòng ta thực bất nhẫn. Đuổi kịp Giang Chí Thăng đến Bắc Sơn, ta dám thề với trời đất, ngay một roi ta cũng không chạm đến hắn. Khi hắn chết rồi, ta có oán trách Chí Khởi, thế nhưng Long huynh muốn ẩu đả cùng ta.
Tiểu Nhạn trợn mắt nói:
- Giết phụ thân ta chỉ mình Chí Khởi thôi sao?
Chí Minh nói:
- Sự tình đã như vậy, ta cũng không ngại mà nói rõ. Oan có đầu, nợ có chủ. Thiếu gia đừng loạn sát người khác. Lúc đó, tuy lão sư phụ dặn dò chúng ta gặp Chí Thăng thì giết, tuy nhiên lòng ta bất nhẫn, ở Nam Sơn đuổi mấy ngày không gặp. Có một buổi tối chợt nghe Bào Chí Lâm nói Chí Thăng lén về nhà và đã đi rồi. Bọn ta tìm kiếm khắp nơi, đến hôm sau sư phụ còn chưa nói câu nào, Chí Đằng đã dùng roi đánh trúng Chí Thăng còn Chí Khởi tính tình nóng nảy, một đao …
Lúc này chợt thấy Chí Đằng mặt mày xanh mét, râu tóc dựng ngược, tay cầm Côn Lôn đao dẫn một đám người chạy vào trong cửa. Lão hung hăng chỉ Chí Minh mắng:
- Cổ Chí Minh, mi đã mất hết lương tâm. Chỉ vì sợ Tiểu Nhạn, sự tình lúc đó mi đã khai báo hết rồi.
Tiểu Nhạn vội buông tay Chí Minh, quay người cầm kiếm chém Chí Đằng. Lão dùng đao ngăn đỡ, những người xung quanh nhất tề xông lên.
Chí Minh vội vã la lên:
- Mọi người đừng loạn sát. Thiếu gia mau đến Xuyên Địa mà tìm Long Chí Khởi, phụ thân người chỉ một mình hắn giết. Ngay cả sư phụ ta cũng không có hạ thủ.
Lão còn chưa nói xong, thì đã thấy Tiểu Nhạn như một mãnh hổ trong đám heo rừng, bảo kiếm tung hoành ngang dọc chém ngã mấy người.
Long Chí Đằng thân thể vạm vỡ như con gấu, đao pháp cũng linh hoạt, tinh xảo tuyệt luân, nhưng chỉ đánh nhau chưa đầy mười hiệp, Chí Đằng đã bị chém ngã.
Lúc này mọi người đều la lớn:
- Liều mạng tiến lên, đừng để hung thủ chạy thoát.
Tiểu Nhạn lại không muốn giết người vô cớ, nên dùng kiếm mà bảo hộ thân người xông ra cửa. Bên ngoài cũng thập phần hỗn loạn, người của các tiêu điếm khác và quan nhân toàn bộ đều kéo đến nhất tề cầm binh khí đuổi theo Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn không muốn sát thương người, nên giơ cao kiếm, chạy vội ra khỏi tiêu điếm, nhảy lên nóc một chiếc xe đậu gần đó. Bọn người này vây chặt chiếc xe lại rồi chém, bổ, chặt Tiểu Nhạn nhưng chàng dùng kiếm đẩy dạt những binh khí này, rồi bắt đầu từ nóc xe chàng trổ thuật khinh công phi thân lướt trên đầu bọn họ nhảy lên mái nhà gần đó.
Có mấy người biết khinh công cũng rượt theo, nhưng vừa đến gần đã bị Tiểu Nhạn dùng kiếm gạt rơi binh khí, khiến họ không lên được. Tiểu Nhạn lại như con báo vọt qua nhiều dãy nhà đến khách điếm ở Nam Môn nhảy xuống, dắt ngựa ra.
Mấy người trong quán thình lình thấy một bóng người từ trên mái nhà nhảy xuống, bọn họ sợ quá la lên nhốn nháo:
- Chuyện gì vậy?
Tiểu Nhạn ném mấy trăm quan tiền vào cho điếm gia, tra kiếm vào vỏ, dắt ngựa đi ra khỏi cửa nhảy lên mình ngựa chạy vọt về phía nam.
Không xa, đã nghe tiếng chân ngựa dồn dập phía sau. Mười mấy con ngựa đã kịp đuổi đến. Tiểu Nhạn mỉm cười vút roi cho ngựa phi nhanh, khiến lũ ngựa phía sau không sao đuổi kịp.
Tiểu Nhạn chạy ước khoảng bảy, tám dặm, trước mặt ngang một dòng sông nhỏ, nước cạn. Tiểu Nhạn thúc ngựa vượt qua sông đến bờ bên kia. Chàng nhảy xuống cho ngựa nghỉ ngơi, còn chàng đứng trên bờ sông mà nhìn về phía bắc, thấy bọn ngựa từ phía xa đã dần hiện rõ, trong đám có cả quan nhân, đầu đội nón đỏ.
Thế là Tiểu Nhạn nhảy lên lưng ngựa phóng đi. Hai bên đều là ruộng lúa, chính giữa là một con lộ nhỏ, chàng lại thúc ngựa đi ba, bốn dặm thì đi đến Ba Sơn, cây cối xanh biếc.
Chàng đi trong sơn lộ thật lâu mới ra khỏi sơn khẩu. Đến đây là thuộc địa giới của Xuyên Bắc, nơi này chàng đã từng đi qua. Ở đây chàng có rất nhiều bằng hữu, nhưng khi đó chàng chỉ là một tiểu hài tử đang trên đường đào thoát mà giờ chàng đã trở thành một đại hán khôi ngô vạm vỡ, võ nghệ tuyệt luân.
Chàng ngửa mặt cho ngựa chầm chậm đi tới. Mục đích là Tiểu Nhạn muốn đi đến Lang Trung Phủ thăm hỏi Lang Trung Hiệp, đồng thời cũng hy vọng trên đường gặp một, hai người quen biết để từ họ có thể thám thính tin tức, nơi trú ẩn của Bào Côn Lôn và Long Chí Khởi.
Tiểu Nhạn cứ đi thẳng về ph