-->
Tiểu Nhạn buồn bã lắc đầu nói:
- Lão không cần nhắc lại chuyện xưa để ta thương hại?
Lão sư lắc đầu nói:
- Ta không có ý đó. Ta chỉ mong mi nhớ tới tôn nữ ta, nó với mi vô thù oán, nó cũng là người ta thương yêu nhất, võ nghệ ta đều truyền cho nó, lại gả cho Kỷ Quảng Kiệt. Tiểu phu thê của chúng vừa thành hôn hai ngày ta đã bảo đến Trường An đối phó mi, không biết mi đã gặp chưa?
Tiểu Nhạn trả lời:
- Ta đã gặp.
Bào Chấn Phi lại hỏi dò:
- Ta biết phu thê chúng không phải là đối thủ của mi, không biết chúng đã thảm tử dưới tay mi chưa?
Tiểu Nhạn thê thảm cười nhạt nói:
- Lão và huynh đệ họ Long sát tử phụ thân ta, người khác đối với ta có thù gì. Hơn nữa, họ có làm gì bại hoại, dù họ có đối địch với ta,
ta cũng không nỡ ra tay hạ thủ.
Bào lão nghe nói, biết tôn nữ của mình chưa bị sát tử nên an tâm nhưng lòng càng bi thiết hơn nói:
- Ta cầu xin mi dung thứ ta vài ngày để gặp được tôn nữ một lần, được không?
Tiểu Nhạn suy nghĩ một hồi lâu rồi gật đầu. Ngũ Kim Hổ giật mình kinh dị nói:
- Giang huynh đệ, sao lại như vậy được. Trừ phi huynh đệ muốn gọi tôn nữ của lão già này bằng thê tử. Huynh đệ đừng để mắc lừa mỹ nhân kế của lão già này. Muốn cưới thê tử, trên giang hồ này thiếu gì mỹ nhân, nữ hiệp. Tức phụ xinh đẹp như Thái Tiểu Tiên đời này đâu thiếu. Đừng mắc lừa kế của lão. Hơn nữa, tôn nữ của lão đã gả cho Kỷ Quảng Kiệt.
Tiểu Nhạn khoát tay nói:
- Hồ đồ, đi thôi!
Ngũ Kim Hổ cười nói:
- Lời của ta, huynh đệ nhớ kỹ. Anh hùng nan quá mỹ nhân quan.
Hắn lại phi ngựa về phía trước. Bào lão giờ đã ổn định tinh thần. Tuy lão đi theo Tiểu Nhạn như một tội đồ, y phục rách nát, râu tóc bạc phơ đã nhuốm bụi phong trần thành màu đỏ bạc nhưng lão lại phấn chấn vội thúc ngựa đi theo Ngũ Kim Hổ. Lòng cứ mong ngóng mau về Trấn Ba để gặp tôn nữ. Tuy biết Quảng Kiệt và A Loan không phải đối thủ của Tiểu Nhạn nhưng việc sinh tử là có số mạng. Chỉ cần nói rõ với tôn nữ một câu lần này đến Xuyên Bắc trừ việc giết hại Thái Tiểu Hùng ngoài ra không làm điều gì ác, thiên hạ đồn đại, Chí Khởi đại ác cũng thật khó tin.
Lòng nghĩ vậy nên mặc Ngũ Kim Hổ châm chọc, mắng nhiếc thế nào lão cũng không màng đến.
Tiểu Nhạn tuy đi bộ nhưng thuật phi hành của chàng cao siêu nên không bị rơi lại phía sau nhưng suốt cuộc hành trình chàng cứ mãi chau mày nhăn nhó.
Đường khúc khủyu đi hơn hai mươi dặm chưa gặp bóng người. Chưa ra hết sơn lộ, trời đã về chiều. Ngũ Kim Hổ dừng ngựa ngoảnh đầu lại gọi:
- Giang huynh đệ giờ phải mau ra khỏi đây, thì đến một nơi bằng phẳng cách Hán Trung phủ không quá sáu mươi dặm.
Tiểu Nhạn phía sau giận dữ nói:
- Ai bảo đi Hán Trung? Ta muốn đến Trấn Ba.
Ngũ Kim Hổ cười nói:
- Lão huynh đệ mi vẫn không quên trở về nhà cưới tức phụ sao? Đã vậy chúng ta phải đi thêm hai mươi dặm nữa. Phải quay trở lại, phía sau chỗ ngã ba sơn lộ chúng ta vừa qua, hướng tây là tử lộ, hướng đông tuy đường hẹp nhưng càng đi càng rộng. Ra khỏi động khẩu thì đến Văn Thắng trấn còn gọi là Ôn Thần trấn, rồi đi về phía bắc ba mươi dặm là đến Trấn Ba.
Tiểu Nhạn vội nói:
- Nếu vậy chúng ta trở lại đi đến Ôn Thần trấn.
Cả ba quay lại dĩ ước khoảng hai dặm quả nhiên gặp một sơn lộ, vừa rồi Tiểu Nhạn không chú ý. Thấy sơn lộ này vừa hẹp chỉ đủ một người đi lên, hơn nữa phía dưới đá chập chùng, gập ghềnh, trơn trượt. Hàng trăm, hàng ngàn sơn điểu bị kinh động xao xác bay lên, dập cánh như cuồng phong cuốn bụi mù đầy trời.
Tiểu Nhạn nghi ngờ hỏi Ngũ Kim Hổ:
- Có chắc đúng đường không?
Ngũ Kim Hổ quả quyết:
- Chắc chắn thôi. Trước đây ta đã từng ở đây, không thể lầm được. Trừ phi mấy năm nay núi đã thay hình đổi dạng.
Dứt lời, hắn liền thúc ngựa đi lên phía trước. Bào lão cẩn thận từng buớc chân.
Vừa đi lão vừa thở dài nặng nề lòng nặng trĩu đau buồn thê thiết. Lão nhớ đến Ngũ Kim Hổ trên đường đánh lão không dưới bảy tám mươi roi khiến toàn thân nhức buốt. Vì có Tiểu Nhạn đi phía sau nên không dám hoàn thủ đánh trả. Thứ hai, lão nghĩ cả đời ngang dọc giang hồ xưng nhất thế hảo hán, giờ tuy niên kỷ đã già nhưng sức lực không yếu the,á mà gặp Tiểu Nhạn như chuột gặp mèo, một chút võ nghệ cũng không thể thi triển. Đó thực là oan gia đối đầu. Thứ ba, sắp đến Trấn Ba rồi, đem thân thảm hại thế này mà trở về cố hương dù Tiểu Nhạn không giết nhưng lão còn mặt mũi nào nhìn lại cố nhân, môn đồ.
Mang mối thương tâm như vậy, lão thực không muốn sống, định tâm tự tận, bằng không trước đánh chết Ngũ Kim Hổ sau đó tùy nghi Tiểu Nhạn xử trí.
Trong lúc còn đang lưỡng lự chưa quyết, chợt Ngũ Kim Hổ phía trước kêu lên:
- Ái chà! Nơi đây có nhà kìa!
Tiểu Nhạn cũng ngẩng đầu nhìn, thấy xa xa khói bếp bốc lên lan tỏa trên cao.
Ngũ Kim Hổ nhìn Tiểu Nhạn nói:
- Trời đã về chiều, không lẽ chúng ta đi cả đêm đến Ôn Trấn sao?
Tiểu Nhạn tuy không mệt mỏi nhưng còn vướng bận trăm mối suy tư, vả chăng cũng cảm thấy đói bụng nên nói:
- Huynh tìm đi, nếu có chỗ trú chân chúng ta ở lại hôm sau hãy lên đường về Trấn Ba.
Ngũ Kim Hổ vừa đi, mắt vừa đảo nhìn xung quanh không xa, hắn liền thấy sơn trạch bên trái có mấy tầng thạch cấp là do nhân công làm thành. Hắn bèn xuống ngựa đồng thời cũng đẩy Bào lão xuống dùng dây trói chặt, miệng nói:
- Ta trói lão mới bảo đảm.
Bào lão nằm dài trên đất, tủi nhục thở dài. Tiểu Nhạn đặt bao hành lý và bảo kiếm xuống đất cột hai con ngựa vào gốc cây ven đường. Còn Ngũ Kim Hổ men theo thạch cấp mà đi lên.
Lúc này Tiểu Nhạn ngồi xổm định cột chặt bao hành lý nhưng đột ngột chàng cảm thấy như thiếu mất một vật gì trong đó. Kiểm lại chàng thấy rõ ràng thiếu mất chiếc tú hài mà chàng đã nhặt được ở sơn lãnh khi tìm kiếm A Loan.
Chàng mở bung bao hành lý xem xét cẩn thận nhưng chẳng còn thấy bóng dáng nó đâu. Chàng vô cùng nóng nảy.
Ngũ Kim Hổ đứng trên thạch cấp gọi với xuống:
- Giang huynh đệ, mau đưa lão già đó lên đây. Đại ca này là thợ săn trong núi, bằng lòng cho chúng ta nghỉ lại một đêm. Trong nhà nấu rất nhiều cơm.
Tiểu Nhạn nói:
- Ngũ huynh xuống đây mang người và hành lý lên, ta mất một vật phải đi tìm ngay.
Dứt lời không thể để Ngũ Kim Hổ nói gì, bèn cầm bảo kiếm thuận theo sơn lộ lúc nãy mà trở lại tìm. Chàng cầm kiếm đi về phía tây, vừa đi vừa khom lưng, mở to mắt cúi nhìn khắp nơi nhưng vì trời tối rất mau hơn nữa đá và cỏ rất nhiều. Chàng tìm kiếm hồi lâu, lưng đã mỏi nhừ nhưng vẫn không gặp chiếc tú hài hồng đó.
Lòng chàng hết sức nóng nảy, đứng thẳng lên nghỉ ngơi hồi lâu rồi tự mình nổi giận lấy mình. Nhớ lại những việc Bào Chấn Phi đã gây ra cho mình và gia đình mình và chẳng A Loan nào có tình cảm chi với mình, ngay cả gốc liễu năm đó, nàng cũng giận chém không tha thì một hồng tú hài của nàng có đáng gì để chàng mãi bận tâm.
Thật quả nhi nữ thường tình, anh hùng chí đoản! Vì vậy chàng quyết tâm không tìm tú hài nữa mà quay về.
Chàng lần mò kiếm hồi lâu mới thấy thạch thất, ngựa và hành lý còn nằm dưới đất. Ngũ Kim Hổ không đem lên, Tiểu Nhạn thầm nghĩ:
“Kim Hổ thật hồ đồ. Cứ mong sớm nghỉ ngơi ăn uống, việc gì cũng không quản đến. Tánh khí cường đạo như hắn cũng rất thâm hiểm, cùng đồng hành với hắn khó tránh sau này gặp họa lớn, chi bằng thừa lúc này giải quyết Bào Chấn Phi tặng cho hắn một ít ngân lượng rồi chia tay…”.
Chàng vừa nghĩ, vừa ngồi xuống cột chặt bao hành lý. Một tay cầm kiếm, một tay xách hành lý, nhún mình phi thân lên trên thấy có một động nhỏ. Trước động có lắp một khung cửa, khói bếp từ đó nhè nhẹ bay ra.
Tiểu Nhạn bước đến trước cửa gọi vòng vào:
- Ngũ đại ca.
Bên trong không có tiếng hồi đáp, Tiểu Nhạn đẩy cửa vào chỉ thấy trên tường treo một đĩa đèn cháy leo lét. Tiểu Nhạn kinh hoàng thấy máu bắn khắp nơi, thi thể ngổn ngang. Thì ra, Ngũ Kim Hổ cùng người thợ săn mình mới gặp đã chết rồi. Dựa tường còn gặp một người, mái tóc xõa dài, Tiểu Nhạn dùng tay kéo người đó, ra đấy là một phụ nhân, có lẽ là thê tử của người thợ săn.
Tiểu Nhạn nhìn quanh không thấy bóng dáng Bào Chấn Phi. Chỉ thấy trên bếp nồi cơm vừa chín tới, tỏa hương thơm ngọt ngào, Tiểu Nhạn giận dữ đạp một cái mắng lớn:
- Giỏi cho lão tặc hung ác.
Chàng ném hành lý xuống, tay cầm bảo kiếm nhảy ra khỏi động truy tìm nhưng trời tối như bưng, gió núi gầm rít, rừng cây lao xao, tiếng chim đêm quang quác, không một bóng người.
Tiểu Nhạn chạy xuống núi thấy hai ngựa còn đó, nghĩ là Bào lão giết người xong tất chạy chưa xa, chàng vội tìm kiếm khắp nơi. Vì trời tối, núi non chập chùng, bóng cây âm u, nơi nào cũng có thể ẩn thân được, hết mong tìm gặp. Tiểu Nhạn khí giận bừng bừng, nghiến răng rít giọng:
- Bào Chấn Phi, lão cẩu tặc thừa lúc không có ta ở đây mà sát hại bằng hữu ta còn đang tâm giết chết những người vô tội. Lão cẩu mi có thể chạy thoát sao. Giang đại gia này để lão sống ba ngày nữa không phải là hảo hán. Mau ra đây đừng ẩn nấp trong huyệt mộ nữa.
Chàng mắng hồi lâu cũng chẳng ai lên tiếng nên lại tiếp tục tìm kiếm, cơ hồ đã lùng sục cả núi này, nhưng tung tích của Bào lão vẫn bặt vô âm tín.
Tiểu Nhạn tự mắng:
“Đây chỉ trách ta thôi. Nếu không vì ta đi tìm tú hài đó thì lão tặc làm sao có thể cắt dây mà giết chết phu phụ người thợ săn vô tội và Ngũ đại ca. Ngũ Kim Hổ là cường đạo có chết cũng đáng tội, chỉ thương cho phu thê người thợ săn lương thiện tốt bụng.
Họ ẩn cư chốn hoang sơn đã cực kỳ cùng quẫn vậy mà vẫn bị lão tặc hại chết. Lão cẩu giết họ kỳ thực chính là ta giết họ. Nếu ta không vì nhi nữ thường tình, không nhẫn tâm sát tử lão đầu, lưu lão lại để gây nên oán nghiệt vô lương này”.
Càng về khuya gió núi càng dữ dội khiến rừng cây nghiêng ngả. Lòng Tiểu Nhạn như lửa thiêu đốt. Chàng vừa căm thù vừa hối hận, vừa chửi mắng vừa lục lọi hồi lâu mới nhìn ánh đèn leo lét phía dưới.
Tiểu Nhạn từ trên cao phi thân xuống. Đó là căn nhà vừa xảy ra việc sát nhân.
Cửa mở rộng vì khi nãy chàng không đóng lại. Hương thơm của cơm chín đã bay mất, ánh đèn càng mờ nhạt hơn. Tiểu Nhạn càng tức giận bước vào trong.
Chàng cúi người xem xét thương tích của họ thì thấy phu thê người thợ săn trên ngực đều rách ra, cái chết thực thê thảm. Tiểu Nhạn đứng dậy thở dài rồi lại ngồi xổm xuống thu dọn hành lý mang vào lưng định rời khỏi nơi này đi nơi khác phía trong núi mà tầm nã Bào Chấn Phi.
Thình lình nghe tiếng gió sau lưng, Tiểu Nhạn vội vàng né sang một bên. Chỉ nghe “Bùng” một tiếng cực lớn, chấn động đến nỗi vách đá trên tường ào ào rơi xuống, đồ vật trong phòng xao động.
Thì ra, sau lưng chàng không biết từ lúc nào đã xuất hiện một lão hòa thượng cao lớn. Lão hòa thượng này mặt đen mắt to, râu như lông nhím. Trong tay cầm một đại thiết côn dài hơn một trượng cực to, đen loáng.
Lão từ phía sau lưng Tiểu Nhạn đập một côn xuống. Tiểu Nhạn tránh ra đồng thời vung tay tuốt kiếm định đâm vào bụng hòa thượng.
Hắc hòa thượng đập thiết côn xuống, đè lên bảo kiếm của Tiểu Nhạn. Thanh âm của lão như tiếng sấm vang lên:
- Giang Tiểu Nhạn, mi cho anh hùng thiên hạ chỉ có mi sao? Mi hiếp đáp lão tiêu đầu như vậy. Mi giết quan nhân, cướp quan quyến ở Loa Sư Lãnh, hôm nay ta thay trời hành đạo tróc nã cường tặc như mi.
Tiểu Nhạn vội buông bảo kiếm, hai tay chụp lấy thiết côn của đối phương trợn mắt nói:
- Lão hòa thượng hồ đồ không được mắng người, Tiểu Nhạn ta đường đường là hảo hán, Bào Chấn Phi là thù nhân của nhà ta. Từ Xuyên Bắc ta bắt được lão, giải đến đây vì lòng ta bất nhẫn. Việc Loa Sư Lãnh là do Long Chí Khởi đồ đệ của lão mạo xưng danh ta.
Đại hòa thượng “hừ” lạnh. Hai bàn tay như hộ pháp nắm chặt thiết côn dùng sức giật lại.
Tiểu Nhạn cũng vận lực nắm chặt thiết côn không để hòa thượng giật được đồng thời chàng nói:
- Ta hỏi lão phải chăng là Thiết Trượng Tăng. Nếu phải thì lão cũng là một hiệp nghĩa giang hồ. Ngày trước ở nhà Lang Trung Hiệp, ta từng gặp qua ba thiết côn lão đặt ở đó. Bằng hữu của ta là Viên Kính Nguyên cũng là đồ đệ của lão. Chúng ta bất tất phải tranh hùng quyết sinh tử làm chi.
Thiết Trượng Tăng vẫn cố đoạt lại thiết côn, nghiến răng hậm hực nói:
- Mi sợ chết à? Nếu sợ chết sao còn ra giang hồ mà xưng hùng?
Tiểu Nhạn cười nhạt nói:
- Nếu quyết đấu chưa biết ai sống ai chết. Chẳng qua vì cửu ngưỡng đại danh của lão đã lâu nên muốn đem uẩn khúc trong Bào gia ra mà nói tỏ tường với lão. Sau khi nói rõ muốn đánh cứ đánh.
Thiết Trượng Tăng lại hét lớn như tiếng đại hồng chung ngân xa khiến tai Tiểu Nhạn lùng bùng. Lão đạp chân xuống đất khiến đá dưới chân nát vụn. Lão hét lớn:
- Ta đã biết mi là loài hung ác nên thay giang hồ mà trừ hại đây.
Lúc này đại hòa thượng dùng hết sức giật mạnh thiết côn ra sau. Tiểu Nhạn buông tay ra. Thiết Trượng Tăng như tảng núi lở “Bình” té nhào xuống đất.
Tiểu Nhạn cầm kiếm lên nhưng không ngờ Thiết Trượng Tăng tuy thân thể to lớn lại vô cùng linh hoạt, nhanh nhẹn, lão lăn người chồm dậy, chụp thiết côn lăn ra ngoài hét lớn:
- Ra đây!
“Ầm!” một tiếng long trời, thiết côn đã đập nát cánh cửa, sau đó thiết côn lão không ngừng đập vào vách đá kêu lớn:
- Ra đây! Ra đây!
Tiểu Nhạn ném đĩa đèn treo trên tường ra trước rồi cầm kiếm nhảy ra nhưng một côn của Thiết Trượng Tăng đã đập tới mặt chàng. Tiểu Nhạn không dám dùng kiếm ngăn đỡ mà vội nghiêng người né tránh rồi như tia chớp, bảo kiếm đâm vào bụng Thiết Trượng Tăng.
“Cảng” côn của Thiết Trượng Tăng đã bạt kiếm ra rồi thiết côn lại quét ngang bụng Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn vọt lên tảng đá tránh né. Thiết côn đập đến, tảng đá Tiểu Nhạn đang đứng nát nhừ nhưng Tiểu Nhạn đã nhanh lẹ phi thân sang nơi khác tránh né.
Thiết Trượng Tăng dộng thiết côn xuống đất mắng:
- Giang Tiểu Nhạn, chạy sao? Mau ra đây!
Đang nói chợt nghe bên ngoài có tiếng gió. Thiết Trượng Tăng khom người, bảo kiếm của Tiểu Nhạn đã lướt trên đầu lão.
Thừa cơ, Tiểu Nhạn vọt ra sau phóng cước đá Thiết Trượng Tăng, khiến lão như con vụ xoay n
người vung côn.
“Ầm” một tiếng, thiết côn lại đập trên tảng đá tóe lửa còn hình bóng Tiểu Nhạn nơi nào không rõ.
Lão dộng mạnh côn hậm hực nói:
- Phỉ tặc! Đồ chuột thối! Mi đã làm ô danh sư phụ mi rồi. Giỏi thì đấu với ta, đừng rút đầu rút cổ như vậy.
Mặc cho lão hét toáng lên, chẳng ai thèm lên tiếng, lão bèn hầm hừ sải bước đi lên núi. Mới đi mấy bước chợt phía sau có người vọt lên chụp lấy thiết côn. Thiết Trượng Tăng giật mình quay đầu, thì kiếm quang đã ép tới, lão vội nghiêng người tránh.
Tiểu Nhạn tức tối đổi chiêu nghiêng nghiêng chém xuống. Thiết Trượng Tăng tung cước đá vào cổ tay của Tiểu Nhạn. Kiếm của chàng bị đá văng.
Thiết Trượng Tăng định hoành côn thì Tiểu Nhạn đã từ phía trước ngực đá một cước khiến lão té nhào. Cả người Thiết Trượng Tăng cùng thiết côn và đá núi lăn ầm ầm xuống núi. Thiết côn trong tay lão văng mất. Thiết Trượng Tăng định bò dậy nhưng từ trên Tiểu Nhạn như cánh đại bàng bay xuống đấm một quyền vào đầu lão, Thiết Trượng Tăng cảm thấy đầu nhức như búa bổ, trước mặt tối đen. Tuy nhiên lão cũng kịp thời tung ra một tay, điểm vào ngực Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn biết Thiết Trượng Tăng am hiểu thuật điểm huyệt nên kịp thời bật ra sau tránh né cùng lúc nhặt luôn thiết côn của Thiết Trượng Tăng mà chạy lên sơn lộ về phía tây.
Thiết Trượng Tăng đuổi theo chưa được mấy bước. Tiểu Nhạn đã đứng trên tảng đá ven đường chờ đợi.
Lão vừa chạy đến Tiểu Nhạn đã vung côn bổ xuống đầu lão. Thiết côn này phân lượng rất nặng. Tiểu Nhạn dùng không quen tay nên thế đánh không chính xác.
Thiết Trượng Tăng đã tránh được, đồng thời đưa tay chụp lấy đầu côn. Hai người tận lực giựt lấy thiết côn giằng co hồi lâu bất phân thắng bại.
Tiểu Nhạn đứng phía trên, Thiết Trượng Tăng ngồi bệt xuống đất, bất thần lão vụt đứng dậy giựt mạnh.
“Cảng” một tiếng côn lại đập vào trên đá. Tiểu Nhạn vội né người sang bên rồi chuyển thân đá một cước sau lưng Thiết Trượng Tăng khiến lão té sấp mặt xuống.
Lão muốn ngồi dậy nhưng đầu nặng nề choáng váng, sức lực đã cạn, sau lưng dường như bị cắt đôi, lão đành rên “hừ hừ” nằm đó, hai tay nắm chặt thiết côn không buông. Từ một phía bên, Tiểu Nhạn lại phóng ra một cước khiến Thiết Trượng Tăng và côn cùng lăn xuống lôi theo mấy tảng đá lớn.
Tiểu Nhạn sợ rằng lão còn chưa chết muốn xuống núi mà kết thúc lão. Không ngờ, chàng còn chưa tới nơi thì đã nghe một tiếng kêu thảm “Á” vang vọng bên dưới chấn động cả sơn cốc.
Chính đó là thanh âm của lão hòa thượng. Tiểu Nhạn kinh ngạc đứng lại, một thoáng ngẩn người rồi chạy xuống. Xuống hết vách núi thì đến sơn đạo. Chàng không còn nghe thanh âm gì nữa. Thiết Trượng Tăng và thiết côn không còn biết lăn về phương nào, ngẩng mặt nhìn lên chỉ thấy muôn ngàn vì sao lấp lánh.
Tiểu Nhạn đứng hồi lâu động tĩnh gì khác, thầm nghĩ:
“Lão nhất định té chết rồi. Người này hung hãn mạnh bạo như vậy, từ khi mình hạ sơn đến nay chưa gặp qua. Có thể xem đây là đối thủ duy nhất trong đời mình. Tuy ta có thắng lợi nhưng hai cánh tay tê chồn, nếu giờ đây có người đến giao chiến, e rằng ta phải chịu thất cơ”.
Chàng thở dài bước mấy bước chợt cảm thấy không xong. Vì trận đánh vừa rồi đã chuyển đổi vị trí mấy lần, trong sơn đạo tối âm u này không nhìn ra đường đi và phương hướng, chàng đành phải ở đây chờ trời sáng.
Chàng mệt mỏi ngồi bệt xuống tảng đá âm thầm nghĩ:
“Có lẽ Thiết Trượng Tăng biết ta áp giải Bào Côn Lôn nhất định phải qua nơi này nên lão đến đây chờ đợi. Lão cứu Bào Côn Lôn đi lại còn dùng thiết côn đập chết phu phụ người thợ săn và Ngũ Kim Hổ. Hôm nay nếu không phải là ta tất đã táng mạng dưới côn của lão rồi”.
Chàng tức tối bật dậy nói:
- Bào Chấn Phi chạy rồi. Ta vì báo thù mà mười năm bị gian nan khổ cực, chẳng lẽ toàn bộ chẳng được gì. Nếu bắt lại được Bào Côn Lôn ta quyết không dung cho lão sống.
Thình lình chàng nghe tiếng ngựa hí. Tiểu Nhạn lắng tai nghe tiếng ngựa hí ở phía xa. Nó lại hí thêm hai tiếng, Tiểu Nhạn đã nhận ra phương hướng, từ từ đi về hướng đó.
Hồi lâu, Tiểu Nhạn đã tìm đến nơi nhưng cảnh tượng khiến chàng hoảng hốt. Vừa rồi, Ngũ Kim Hổ đã bị giết chết, Bào Côn Lôn trốn đi nhưng hai con ngựa vẫn còn cột nơi đó, giờ đây chỉ còn lại một tuấn mã. Phải chăng Thiết Trượng Tăng lăn xuống núi còn chưa chết? Lão đoạt ngựa chạy thoát hay là tự con ngựa giật đứt dây cương mà chạy.
Chàng nghĩ không ra, nên định lên nơi nhà thợ săn vừa bị giết tìm cơm ăn nhưng nhớ lại đèn nơi đó đã tắt, bên trong tối âm u, khắp nơi là máu. Nếu vướng vào y phục mình, ngày mai ra khỏi núi đi đường rất không tiện. Chàng bèn ngồi bên mình ngựa mà chịu đói, chịu rét cả đêm.
Trời về sáng sương đêm xuống nhiều. Ngựa bên mình chàng vừa đói, vừa khát, lại thêm rét lạnh nên cứ hí vang. Lúc này chim rừng cũng bắt đầu xào xạc.
Tiểu Nhạn liền lên nhà người thợ săn đưa mắt nhìn vào thấy thi thể Ngũ Kim Hổ và phu thê thợ săn, càng thêm thê thảm. Máu trên đất đã đông lại khô cứng. Chàng quan sát vết thương trên người họ thì quả thật đã bị thiết côn đập phải. Đá trên vách và dưới đất có mấy lỗ to hoàn toàn là vết tích của thiết côn.
Tiểu Nhạn vô cùng phẫn nộ, ra ngoài tìm kiếm hồi lâu nhưng không thấy có nơi nào có thể đào huyệt chôn cất mấy thi thể này nhưng chàng đã tìm thấy bảo kiếm mà đêm qua đã bị thiết côn đánh văng.
Tiểu Nhạn cầm kiếm lên lùng sục khắp nơi, trèo cả lên cây muốn tìm kiếm chốn ẩn thân của Bào lão đầu. Chàng leo lên vách núi chợt bắt gặp thi thể Thiết Trượng Tăng đang nằm bên dưới, đầu gật trên sơn thạch, chân vướng vào cỏ hoang, máu đọng thành vũng. Hình dáng lão như một con gấu xám nằm chết.
Tiểu Nhạn chạy nhanh xuống đó. Chàng nhìn thi thể của quái kiệt ba mươi năm danh chấn giang hồ không chút thương cảm, chỉ là kinh ngạc vì Thiết Trượng Tăng không phải té chết mà trên trán lão có một vết chém rất to máu tuôn ra nơi đó.
Tiểu Nhạn giật mình nghĩ:
“Thật quái lạ. Hôm qua đấu với lão trong tay ta đâu có bảo kiếm. Lúc lão rơi xuống chỉ nghe tiếng kêu thảm, trừ phi có người nào cầm đao kiếm chờ sẵn bên dưới, lão lăn xuống thừa cơ mà sát thủ”.
Lòng thắc mắc kinh nghi nên Tiểu Nhạn tìm kiếm chung quanh mong tìm ra manh mối, chỉ thấy cây thiết côn nặng nề của Thiết Trượng Tăng nằm chơ vơ. Chàng bèn đá sang bên.
Bước đi không xa chợt thấy một vật nổi lên trong đám cỏ xanh thì ra là chiếc hồng tú hài mà đêm qua chàng kiếm mãi không gặp. Tiểu Nhạn nhìn thấy vật này, lòng nổi lên căm hận đứng yên không muốn nhặt lên, nhưng rồi tim chàng lại cồn cào một tình cảm yếu mềm, nghiến răng lấy bao hành lý trên lưng xuống, nhét tú hài vào trong. Rồi một tay cầm bảo kiếm, một tay quảy hành lý ảo não tìm đường mà đi.
Đến nơi cột ngựa bèn cột hành lý lên lưng ngựa, bảo kiếm đút vào hành lý, đưa tay tháo dây trên gốc cây ra, nhưng đột nhiên chàng sực tỉnh, giật mình.
Thì ra con ngựa kia không phải tự giật đứt dây cương chạy đi, vì trên gốc cây còn lưu lại một đoạn dây, nhìn rõ là do đao kiếm cắt đứt.
Tiểu Nhạn chợt hiểu, có người đã âm thầm ở đây giết chết Thiết Trượng Tăng rồi cắt dây cưỡi ngựa đi, thầm nghĩ:
“Người này thực kỳ quái, võ nghệ tất không kém. Giết chết Thiết Trượng Tăng nhất định là một hiệp khách nhưng lúc ta giao thủ sao người này không ra mặt tương trợ.
Nếu thế người này đã quá khinh thường ta rồi”.
Tiểu Nhạn thấy tức tối, cưỡi lên hắc mã mà đi. Vốn trước, đầu hắc mã có treo đầu của Long Chí Khởi nhưng giờ đã mất rồi. Hiện giờ, hắc mã trải qua một đêm đói khát nên kiệt sức vì vậy đi trên đường núi mấp mô này rất chậm chạp.
Hiện giờ mặt trời đã lên cao. Con đường nhỏ khúc khủyu quanh co như rắn bò đã thấy bóng vài người qua lại.
Tai chợt nghe tiếng “Boong boong” của chuông ngân dường như xa xa có một tòa miếu nhưng vì tiếng chuông quá xa nên Tiểu Nhạn khó định được phương hướng đành thuận theo sơn lộ mà thúc ngựa đi.
Đường đi gập ghềnh uốn lượn hơn mười dặm mới thấy trước mặt có một dãy nhà hình như đó là một trấn nhỏ.
Tiểu Nhạn nghĩ thầm:
“Ta cần vào đó dùng cơm, nghỉ ngơi rồi sẽ tính”.
Thế là chàng thúc ngựa đi nhanh. Thoáng chốc đã đến tiểu trấn. Nhiều người tay xách giỏ qua lại. Tiểu Nhạn tìm một tửu điếm, cột ngựa rồi đi vào bên trong.
Chưởng quỹ đang lom khom bên lò bếp, cạnh đó có nhiều người lao động đang dùng cơm. Tiểu Nhạn gọi:
- Chưởng quỹ, cho ta một bát.
Tiểu Nhạn tìm một băng ghế ngồi xuống. Người bên cạnh hỏi chàng:
- Huynh đài từ đâu đến?
Tiểu Nhạn ậm ừ đáp:
- Tại hạ từ Trấn Ba đến đây.
Chưởng quỹ bảo chàng chờ chút. Tiểu Nhạn lắc đầu hỏi:
- Ta không gấp nhưng ở trấn này có nơi nào bán cỏ cho ngựa ăn không?
Chưởng quỹ chỉ:
- Phía bắc có một tiệm cỏ đó, khách quan đến đấy mà mua.
Tiểu Nhạn đứng dậy nói:
- Được! Ta đem ngựa đến đó cho ăn, sau đó trở về mà dùng cơm.
Thế là chàng ra cửa dắt ngựa đi. Đến tiệm bán cỏ thấy có mấy chiếc xe nằm đó và mười mấy con lừa, ngựa cột ở trong chuồng. Tiểu Nhạn giao hắc mã cho người trong tiệm dặn lát nữa mình sẽ trở lại.
Chàng đi ra thì thấy trên lưng bảng hiệu của mấy điếm phố đều viết chữ Văn Trấn cùng tên hiệu quán mình.
Tiểu Nhạn trở về hướng nam định đến tửu điếm lúc nãy dùng cơm, nhưng đi chưa được mười mấy bước đã thấy một đạo sĩ đang đứng trước một cửa điếm hóa duyên.
Trong tay đang cầm một chuông gõ leng keng, miệng lẩm nhẩm niệm Phật, mặc trường bào tay áo rộng, búi tóc không khác đạo sĩ nhưng xem kỹ mới biết đây là nữ nhân, ước khoảng trên bốn mươi.
Tiểu Nhạn nhớ đến lời Ngũ Kim Hổ nói với hắn mười lăm năm trước đã từng ở Ôn Thần trấn, xui rủi gặp một nữ đạo cô, nên Tiểu Nhạn càng chú ý vị đạo cô này.
Chàng thấy người trong điếm bước ra cho mấy đồng tiền, đạo cô cảm tạ rồi bước sang tiệm khác hóa duyên.
Tiểu Nhạn trầm tư quay trở về tửu điếm. Tiểu nhị mang cho chàng một tô mì nóng hổi. Tiểu Nhạn vừa ăn vừa hỏi thăm:
- Ta sinh trưởng ở Trấn Ba cách nơi này không xa, nhưng đây là lần đầu tiên ta đến Ôn Thần trấn, thấy nơi đây thật đặc biệt, ngay cả đạo sư hóa duyên cũng là phụ nữ.
Người bên cạnh nói:
- Đừng nói bậy. Đó là đạo cô ở Vân Thê lĩnh Cửu Tiên quan, không phải gặp điếm phố nào cũng hóa duyên đâu mà chỉ hóa duyên những nơi buôn bán lớn hoặc những gia đình giàu có.
Tiểu Nhạn vội hỏi:
- Cửu Tiên quan ở đâu?
Người đó nói:
- Trên đỉnh núi phía tây bắc có một tòa Đại Trường Xuân, đạo cô trong miếu hơn hai mươi người.
Tiểu Nhạn trầm tư lại hỏi:
- Trong miếu có đạo cô không có hòa thượng sao?
Người bên cạnh lại trách:
- Nói bậy! Miếu đạo cô sao để hòa thượng vào? Đừng nói hòa thượng, ngay cả hình dạng như mi cầm hương đi vào, người ta cũng không mở cửa. Trừ khi là quan quyến hay thiện sĩ chân chính đi bái phật.
Đột nhiên có người khác hỏi:
- Chưởng quỹ, hai ngày nay hòa thượng đó không đến sao?
Tiểu Nhạn giật mình ngoảnh đầu nhìn, thấy chưởng quỹ đang nhăn mặt nói:
- Hai ngày nay không thấy đến. Hôm trước ăn ở Trần Gia điếm, hôm qua là ăn ở Phúc Nguyên điếm, hôm nay đến phiên nơi này của ta. Lão thật đáng sợ. Nhất là cây thiết trượng nặng mấy trăm cân, kế đến là sức ăn như hùm, như gấu của lão. Một mình lão có thể ăn hơn mười tô mì.
Tiểu Nhạn hỏi:
- Ăn xong lão không trả tiền à?
Chưởng quỹ nhăn nhó đau khổ:
- Lão mà trả tiền sao. Hòa thượng này đến đây đã hơn tháng rồi. Lão cũng ở trên Vân Thiên Lãnh nhưng không biết ở miếu nào. Nghe nói vì sức ăn của lão quá mạnh nên miếu đó chỉ lo cho lão được một buổi còn lão phải tự kiếm lấy ăn. Lão vào tửu điếm nào không hỏi lấy một câu mà thiết trượng chỉ ngáng ngang cửa thì còn ai dám đắc tội với lão.
Tiểu Nhạn nghe họ đối đáp mà lòng cực kỳ vui vẻ thầm nghĩ:
“Bào Chấn Phi được Thiết Trượng Tăng cứu thoát có lẽ ở miếu nào đó. Còn giết Thiết Trượng Tăng chắc là thù gia của lão, đêm qua đã mai phục sẵn, thừa lúc lão té xuống hôn mê bèn ra tay báo thù rồi trộm ngựa của ta mà đi. Người này có vẻ vô can với việc đào thoát của Bào lão đầu. Nơi này bốn mặt đều là núi lại là giao giới của vùng Xuyên – Thiểm, nhất định ẩn tàng nhiều kỳ nhân dị sĩ. Ta bây giờ phải đi thám thính một phen”.
Chàng ăn vội vàng, ném tiền trả cho chưởng quỹ rồi nhanh chân đến tiệm cỏ, lấy ngựa ra roi chạy về phía nam. Ra khỏi Ôn Thần trấn thuận theo đường đi.
Thoáng chốc Tiểu Nhạn đã đến chân núi nhưng quanh quẩn tìm hồi lâu cũng không thấy đường lên núi. Xa xa có mấy nóc nhà. Tiểu Nhạn thúc ngựa chạy đến thì thấy nơi đó là một tiểu thôn. Những phụ nữ đang ngồi trước các khung cửi dệt vải. Còn các hán tử đập lúa trong sân, tiểu hài đang cho heo ăn.
Tiểu Nhạn đến gần hỏi mấy tiểu hài trước mặt:
- Nào mấy tiểu huynh đệ có biết đường đi đến Cửu Tiên quan trên núi để dâng hương phải đi đường nào không?
Mấy tiểu hài lắc đầu nhìn chàng đáp:
- Không biết!
Tiểu Nhạn bèn cột ngựa vào gốc cây nói:
- Mấy tiểu huynh đệ xem ngựa giùm ta nhé!
Rồi chàng đi đến trong sân phía sau bức tường gặp người của hai nhà đó, vòng tay hỏi mấy nam tử:
- Xin hỏi, muốn đến Vân Thê lĩnh Cửu Tiên quan để dâng hương phải đi đường nào lên núi.
Ánh mắt mấy hán tử nhìn chàng chăm chăm hồi lâu rồi lắc đầu đáp:
- Không biết!
Tiểu Nhạn rất hoài nghi lại vòng tay hỏi:
- Tại hạ muốn hỏi thăm hai người. Chư vị ở quanh núi này có từng thấy qua một lão đầu râu bạc, thân hình cao lớn và một đại hòa thượng cầm thiết côn không?
Mặt của những người này lại nhìn chăm chăm Tiểu Nhạn rồi vẫn nói:
- Không có!
Có một người cười nói:
- Từ đâu mà đến một lão đầu nhi và một đại hòa thượng chứ. Nơi này của bọn ta rất yên tĩnh. Cả năm cũng không có người ngoài đến đây.
Tiểu Nhạn ngạc nhiên lòng hồ nghi mấy người này có điều gì giấu giếm, lại trở ra hỏi mấy hài tử chăn heo. Nhưng dường như tiểu hài cũng được ai đó dặn dò, bất luận chàng hỏi gì chúng cũng chỉ đáp không biết.
Tiểu Nhạn thoáng mỉm cười, tháo ngựa ra mà đi, lòng nghĩ:
“Bào Chấn Phi không ẩn tránh trong thôn này thì nhất định là ở Cửu Tiên quan.
Dù bọn họ nhất quyết nói không biết nhưng hôm nay nếu ta để cho lão tặc này chạy đi.
Giang Tiểu Nhạn ta không kể là anh hùng hảo hán”.
Nghĩ vậy nên chàng thúc ngựa đến dưới gốc núi tìm một khu rừng vắng vẻ cột ngựa lại, hành lý tháo xuống mang sau lưng, tay cầm bảo kiếm đi vào trong rừng. Tuy ở đây đá núi sắc nhọn, nhưng Tiểu Nhạn đi đứng nhanh thoăn thoắt không chút phí sức, chẳng bao lâu đã lên tới đỉnh núi.
Trên đỉnh núi cây cối thưa thớt cũng chẳng có miếu tự gì. Nhìn xuống dưới chỉ thấy một màu xanh biếc đều là tùng bách dường như đã từng bị tiều phu chặt qua.
Tiểu Nhạn biết rừng cây có chủ nhân và chủ nhân cũng không xa nơi này.
Chàng bèn nhảy xuống dưới, nhánh cây, rễ cây đâm chân chàng đau nhói, tới mấy bước chân chàng đã làm kinh động chim rừng. Bọn sơn điểu từ dưới chân bay vọt lên kêu nháo nhác. Chàng đi tiếp bốn năm mươi bước thì thấy phía trước có một sơn lộ gập ghềnh.
Tiểu Nhạn lòng hoan hỷ nghĩ thầm:
“Có đường đi rồi, sợ gì không tìm được Cửu Tiên quan”.
Chàng càng nhanh bước hơn.
Lại đi xuống không xa, đột nhiên chàng nhìn thấy dưới đất có một sợi dây thừng rất dài, rất to giống như một mãng xà quấn trên tảng đá. Tiểu Nhạn nhận ra đây chính là sợi dây mà Ngũ Kim Hổ đã trói Bào Côn Lôn được tháo ra chứ không phải dùng đao mà cắt đứt.
Tiểu Nhạn nhìn thấy vật này chân càng bước nhanh hơn, tay cầm bảo kiếm, cước bộ nhẹ nhàng không gây tiếng động rồi ẩn tránh vào nhánh cây chỉ sợ kinh động bọn phi điểu. Chàng như một thợ săn đang truy lùng hang ổ của dã thú, mọp người xuống từ từ đi ba bốn mươi bậc thì thấy trước mặt thảo mộc càng nhiều. Len lỏi trong đám cỏ mọc từ khe đá có nhiều hoa dại mùa thu màu vàng, màu hồng chen lẫn nhau.
Chàng đang tiến về phía trước, chợt nghe “vù” hoa cỏ xao động lung lay, đám sơn điểu táo tác bay lên. Một chú hươu sừng to đang lao về phía chàng. Tiểu Nhạn vội nhảy lên một sơn thạch bên cạnh nhưng con hươu này vẫn vươn cổ không ngừng sục đầu dưới đất dường như đang tìm kiếm vật gì, phía sau lại chạy đến một chú hươu khác có vẻ sợ sệt.
Tiểu Nhạn chăm chú nhìn, thì ra phía sau đó là một lão già râu tóc bạc phơ, mắt láo liên, dáo dác nhìn xung
quanh xem ra dáng điệu lão còn kinh sợ hơn hai chú hươu kia nữa. Tiểu Nhạn đắc ý muốn cười, từ trên sơn thạch nhảy xuống trước mặt lão già cười nói:
- Bào Chấn Phi, lão ẩn nấp nơi này định sống cùng với hươu nai cho rằng ta không tìm bắt được lão sao?
Bào Chấn Phi như thỏ rừng gặp hổ dữ, vừa nhìn thấy Tiểu Nhạn đã nhanh nhẹn quay người bỏ chạy, hai con hươu cũng kinh hoảng bỏ chạy luôn.
Chương 18: Cổ Miếu Thâm Tiêu Đạo Cô Tiếp Diễm Phụ Trương Đồ Phi Kỵ Á Hiệp Hội Quần Hùng
Tiểu Nhạn đâu dễ buông tha cho Bào lão. Chàng cũng vội đuổi theo nhưng không xa trên sơn lộ có một khúc quanh. Đến lúc Tiểu Nhạn chuyển qua khúc quanh nhìn phía trước tìm kiếm thì đã không thấy bóng hình của Bào Chấn Phi nữa.
Tiểu Nhạn căm hận hét lớn:
- Lão còn muốn chạy đi đâu?
Rồi cầm kiếm tiếp tục chạy về phía trước. Lúc này trước mặt chàng xuất hiện một bức tường. Bên trong là một tòa tự viện.
Tiểu Nhạn vì đứng trên cao nên chàng cảm giác như tòa tự viện này ở dưới chân mình vậy.
Tiểu Nhạn dừng chân đứng nhìn thấy tòa tự viện này khá đồ sộ. Tổng cộng có ba viện, dựa vào thế núi mà lập thành. Trong sân viện tùng bách um tùm, khói mây lãng đãng. Bức tường đỏ rất mới.
Tiểu Nhạn ngạc nhiên nhìn thấy ba con hươu chạy đến góc tường. Hai con mái nằm xuống, còn con có sừng dài đưa mắt nhìn Tiểu Nhạn miệng không ngừng kêu.
Chàng cảm thấy chốn này chẳng khác cảnh bồng lai mình không thể mạo thất. Bất luận thế nào hôm nay Bào Chấn Phi cũng không thể chạy thoát.
Chàng chậm rãi đi xuống tìm đến cửa miếu, thấy cửa đã đóng chặt, bên trên có tấm biển ghi “Sắc Kiến Cửu Tiên Quan”.
Tiểu Nhạn nghĩ thầm:
“Đây nhất định là miếu của đạo cô đó nhưng sao lại để Bào Chấn Phi ẩn nấp trong này?”.
Chàng bước lên gõ cửa.Lúc đầu Tiểu Nhạn còn gõ nhè nhẹ nhưng hồi lâu bên trong chẳng có tiếng động. Chàng giận dữ vận sức gõ mạnh vào cửa.
Cánh cửa rung bần bật. Tiếng vọng của núi vọng ra khiến người ta khiếp sợ. Tiểu Nhạn một tay đấm cửa,một tay cầm bảo kiếm kêu lớn:
- Mở cửa. Mở cửa.
Chàng kêu muốn khản cổ nhưng bên trong vẫn lặng lẽ như tờ. Không ai lên tiếng cũng không ai mở cửa. Tiểu Nhạn giận dữ mắng lớn:
- Đạo cô trong này nhất định không phải người tốt. Ta không còn khách sáo nữa.
Nói xong, chàng vọt người lên bức tường đỏ, tay cầm bảo kiếm đứng nhìn xuống.
Chỉ thấy trong viện vắng ngắt không một bóng người. Chợt thấy cạnh cửa trong viện có một chiếc bóng. Dường như người này bước ra định mở cửa.
Đây là một nữ tử. Không phải đạo cô, mặc áo xanh quần hồng, tóc thắt bím dài, cúi đầu. Một tay cầm khăn lau mắt vừa khóc vừa đi ra.
Tiểu Nhạn giật mình sợ mình thất thố, vội vàng nhảy xuống đứng bên cạnh cửa miếu, lòng nghi hoặc nghĩ:
“Đây là chuyện gì vậy? Tại sao trong miếu có nữ tử chưa xuất gia?”.
Lúc này cánh cửa vang lên mấy tiếng kêu kèn kẹt. Cửa đã hé mở nửa cánh. Nữ lang đó bước ra,tuy nàng không lau mặt nữa, nhưng đôi mắt trong sáng còn đọng lệ, nét mặt oán hận u buồn.Tiểu Nhạn vừa nhìn thấy thiếu nữ này chàng giật mình kinh ngạc trước sự tình xảy ra ngoài ý liệu này. Chàng hoài nghi mình đang nằm mộng, đăm đăm đưa mắt nhìn nữ tử hồi lâu mới thảng thốt kêu lên:
- A Loan! …Tại sao nàng đến nơi này?
Nữ lang này chính là Bào A Loan đã thất tung ở Thái Lãnh. Trông dáng vẻ nàng rất bi thương sầu thảm.
Vừa nghe Tiểu Nhạn hỏi, nàng đã trợn mắt nói:
- Chỉ vì mi bức ta đến đây. Mi có bản lãnh quyết tâm báo thù … nhưng mà hà tất giết lão gia gia ta. Người đã già rồi, mi muốn giết cứ giết ta đi.
Dứt lời nàng nhảy vào Tiểu Nhạn, dang tay ôm chặt cánh tay cầm kiếm của chàng.
Lòng Tiểu Nhạn cũng quá đỗi bi thương, trăm mối tơ vò, cánh tay cơ hồ cũng chẳng còn chút sức lực, thở dài khoát tay nói:
- A Loan, nàng bất tất phải nóng nảy như vậy. Hôm nay chúng ta gặp nhau, nàng hãy bình tâm tĩnh trí nghe ta nói đôi lời. Ta còn nhiều lời muốn nói cùng nàng.
A Loan vẫn lo sợ ôm chặt cánh tay cầm kiếm của Tiểu Nhạn. Toàn thân người nàng run rẩy, nước mắt rơi lã chã nói:
- Ta biết. Ta biết mà, huyết hải thâm thù mười năm nay của mi chí nguyện là muốn giết một người họ Bào. Vậy thì được rồi. Hôm nay ta để mi giết chết họ Bào nhưng chỉ có thể hạ thủ một người chứ không thể truy sát cả toàn gia họ Bào mà trả thù cho phụ thân mi.
Dứt lời, nàng dùng hết sức đoạt lấy bảo kiếm trong tay Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn thất kinh chụp vội lấy cổ tay nàng nhưng A Loan hai tay vẫn nắm chặt đốc kiếm không chịu buông xuống, Tiểu Nhạn lo lắng hỏi dồn:
- A Loan, nàng muốn làm gì?
A Loan không trả lời chỉ khóc kể:
- Dù gì ta xin lỗi mi, xin lỗi lão gia gia của ta, xin lỗi Kỷ Quảng Kiệt.
Tiếng “Kiệt” còn chưa nói hết thân hình nàng đã nhào vào mũi kiếm.Tiểu Nhạn cố đoạt lấy kiếm.
Kiếm chàng đã đoạt được nhưng A Loan cũng từ từ ngã quỵ xuống.
Tiểu Nhạn hốt hoảng ném kiếm xuống,hai tay ôm chặt lấy thân thể A Loan, nhìn thấy sắc mặt nàng đã trắng bệch, mắt khép hờ, hơi thở đứt đoạn. Trước ngực nàng bị mũi kiếm đâm thẳng vào chảy ra dòng máu tươi ướt cả chiếc áo xanh nàng đang mặc và thấm cả xuống quần hồng.
Tiểu Nhạn đau đớn nói không nên lời, tha thiết lẫn thương tâm nhìn nàng. A Loan tiếng nói đứt quãng:
- Mi đã cam tâm chưa? Như vậy …mi còn thù oán nữa không? Mau đâm thêm ta …
một kiếm nữa, để ta … nhận tội … Tiểu Nhạn, huynh là người … có lương tâm … muội đã chờ huynh … mười năm … muội tuy gả cho … Kỷ Quảng Kiệt … nhưng không hề … yêu thương hắn … Mười năm trước … lúc muội còn … nhỏ đã bằng lòng … gả cho huynh …
Muội … không quên đâu.
Tiểu Nhạn không ngừng đau thương,nước mắt chảy ròng ròng. Mỗi lời nàng nói như muôn ngàn mũi kim đâm vào trái tim chàng.Tiểu Nhạn ngồi đó ôm lấy A Loan.
Thình lình, cánh cửa được mở toang ra. Bào lão từ trong bước ra. Lúc này, trên gương mặt lão không còn nét sợ hãi như vừa rồi mà đỏ tía, tóc râu dựng ngược phẫn nộ gào lên:
- Tiểu Nhạn, mau buông tôn nữ ta ra. Ta không để mi giết nó cũng không để mi ôm nó. Giang Tiểu Nhạn mau buông nó ra. Ta quyết cùng mi một trận thư hùng.
Máu trên ngực A Loan vẫn không ngừng chảy nhuộm ướt cả cánh tay, bàn tay Tiểu Nhạn. Nàng đau đến toàn thân run rẩy nhưng cố thều thào nói mấy câu:
- Lão gia gia … người cũng nên nghĩ lại … những việc làm ác …ở Xuyên Bắc … của người …cháu đều biết … Lúc mười mấy tuổi … cháu đã yêu thương … Tiểu Nhạn … Nếu lúc đó … người biết một chút thôi … thì mọi người không … đến nỗi có ngày nay … Lão gia gia … sao nỡ gả cháu … cho Kỷ Quảng Kiệt.. Tiểu Nhạn, huynh đừng buông tay … hãy ôm muội cho đến chết.
Bào Côn Lôn nghe tôn nữ nói vậy khiến lão nổi giận nghiến răng trợn mắt. Nhìn thấy Tiểu Nhạn lúc này mặt cũng đầy nước mắt, nhìn thấy tướng mạo anh tuấn của chàng quả thực xứng đôi với tôn nữ của mình. Hơn nữa, tướng mạo chàng rất giống thân phụ là Giang Chí Thăng. Mình giết Chí Thăng quá thê thảm khiến gia đình Tiểu Nhạn cũng lâm vào cảnh tang thương khổ sở nên ánh mắt hung ác của lão cũng dần dần biến mất. Lão thở dài,nhẹ nhàng nói:
- Hai ngươi đi đi. Từ nay ta không nhận nó là tôn nữ của ta. Giang Tiểu Nhạn, ta biết võ nghệ mi cao cường, họ Bào ta quyết không phải là đối thủ. Mi muốn giết ta quyết không đánh trả nhưng ta nói cho mi rõ, năm đó tuy phụ thân mi chết thê thảm nhưng chỉ do chính hắn chuốc lấy thôi. Sau khi chết, bên người hắn còn mấy ngân lượng ta đã trả lại nhà mi. Ta có nhiều lần muốn giúp đỡ, và cũng mấy lần muốn trừ căn diệt gốc nhưng lòng không nỡ. Hiện giờ,chúng ta bất tất nói lời gì. Ta đi rồi, A Loan sống hay chết giao cho mi, ta tìm Kỷ Quảng Kiệt mà thoái hôn.
Dứt lời, Bào lão sầu não đi xuống núi. Tiểu Nhạn chẳng một lời đáp lại Bào lão mà nước mắt chan hòa, tha thiết nhìn gương mặt diễm lệ giờ đã rũ tàn của A Loan đang thiêm thiếp nằm dựa vào cánh tay mình.
A Loan đang trong tình trạng hấp hối, nàng không đủ sức nói nữa, hai mắt đầy ngấn lệ mở to nhìn đăm đăm Tiểu Nhạn.
Tiểu Nhạn nhẹ nhàng bồng lấy nàng đi vào trong viện. Bên trong rất yên tĩnh.
Những chuyện xảy ra nãy giờ người trong miếu dường như không hay biết giống như trong miếu chẳng có người vậy.
Tiểu Nhạn hỏi gấp rút:
- Có ai không? Có ai đây không?
Chẳng nghe tiếng người hồi đáp. Tiểu Nhạn tiếp tục đi thẳng vào đến viện thứ ba mới gặp hai tiểu đạo cô đang chặt củi. Bọn họ vừa thấy Tiểu Nhạn là một thanh niên cường tráng đang bồng A Loan thân thể nhuộm đầy máu, kinh hoàng la lên chạy vào trong điện.
Trong điện bước ra một lão đạo cô. Vừa nhìn thấy tình trạng như vậy, lão đạo cô cũng thất kinh vội hỏi:
- Tại sao như vậy?
Tiểu Nhạn nói:
- Xin đạo cô tìm giúp một nơi cho tại hạ đặt nàng xuống rồi hãy nói sau.
Lão đạo cô thoáng suy nghĩ rồi nói:
- Nàng vốn ở bên ngoài, nhưng thôi được …
Rồi đưa Tiểu Nhạn đến lạc viện thứ hai. Đạo cô mở cửa phía đông, Tiểu Nhạn ẵm A Loan đi vào. Trong này thực tối tăm. Bên ngoài viện có tượng Phật còn trong này có một chiếc giường. Tiểu Nhạn nhẹ nhàng đặt A Loan nằm xuống giường rồi kéo mền đắp cho nàng.
Lão đạo cô nói:
- Bào cô nương do Thiết Trượng Tăng đưa đến đã trú ngụ chốn này hơn một tháng rồi. Miếu này xưa nay không nhận người thế tục vào ở nhưng vì Thiết Trượng Tăng có quen biết với Đạo Đăng, sư cô của bọn ta. Hơn nữa lão hòa thượng ấy lại rất hung hăng uy hiếp,bức bọn ta phải chấp thuận lưu nàng lại. Ta cũng nghe nói nàng bị cường đạo bức đến hết đường trốn chạy. Khi đến,nàng thương tích đầy người, ta là người xuất gia lấy từ bi làm gốc không thể không săn sóc nàng.
Tiểu Nhạn mím môi chỉ A Loan nói với đạo cô:
- Nàng thực đáng thương. Tại hạ cùng nàng là đồng hương, từ nhỏ như huynh muội vậy. Tổ phụ của nàng là một người xấu đã hại nàng đến thế này.
Còn những điều tỉ mỉ căn nguyên thì chàng không muốn nói ra.
Lão đạo cô nói:
- Ta xem nàng không đến nỗi phải chết đâu. Nhà nàng ở nơi nào, mau đưa về để mà điều dưỡng.
Tiểu Nhạn khẽ gật đầu. Đạo cô đi khuất ra ngoài, A Loan cũng vừa khẽ mở mắt, nói nhẹ như hơi thở:
- Huynh hãy đi đi!
Tiểu Nhạn chau mày:
- Thương thế của nàng trầm trọng như vậy, ta làm sao đi được. Bất luận thế nào, ta cũng phải chờ vết thương nàng lành lặn để đưa nàng về gia trang.
A Loan nức nở thều thào nói:
- Muội không về nhà đâu. Huynh hãy đi đi, đừng đến đây nữa. Sau này, muội sẽ không gặp ai cả, nếu lão gia gia có đến cũng vậy, huynh muốn giết cứ giết.
Nói xong,nàng nghẹn ngào, nước mắt chảy dài,khóc không thành tiếng, nhìn nàng thật thê thảm khiến Tiểu Nhạn lòng đau như cắt.
Trầm tư giây lát, chàng nghĩ:
“Hiện giờ trong tay không có thuốc, thương thế của nàng làm sao lành được. Nếu ta ra ngoài mua thuốc thì ở đây chẳng ai chăm nom săn sóc nàng, ta khó an tâm”.
Chàng cứ lưỡng lự khó phân.
A Loan lại khẽ mở mắt. Tiểu Nhạn bước đến gần dịu dàng hỏi:
- A Loan, muội uống nước không?
A Loan thều thào:
- Muội không.
Tiểu Nhạn nói:
- Vậy muội hãy ở đây chờ, huynh sẽ đến Ôn Thần trấn tìm mua thuốc. Không có thuốc, thương thế muội khó mà lành.
A Loan không đáp, từ từ nhắm mắt. Tiểu Nhạn lo âu thở dài, chầm chậm bước ra ngoài. Chàng lại dừng chân ảo não nhìn nàng rồi mới bước đi vội vã ra khỏi viện.
Chàng thấy cửa miếu im lìm đóng chặt. Tiểu Nhạn đẩy cửa bước ra thấy vết máu vẫn còn chan hòa nơi đó lòng càng thống khổ.
Tiểu Nhạn định tìm bảo kiếm đánh rơi lúc nãy những không thấy. Chàng cũng chẳng còn tâm trí nào tìm kiếm tiếp mà gấp rút phóng xuống mấy bậc cấp chạy xuống chân núi.
Chỉ thấy mấy con hươu đang thong dong gặm cỏ thấy chàng đến kinh hoàng chạy đi.
Tiểu Nhạn men theo sơn lộ chạy xuống tìm hắc mã nhưng tìm khắp nơi không thấy, chỉ thấy trên đất còn vương lại một đoạn dây thừng cột ngựa. May là hành lý chàng đã cột sau lưng mình nếu không cũng đã mất theo ngựa rồi.
Tiểu Nhạn nhìn chung quanh chỉ thấy cây rừng rậm rạp, sơn điểu líu lo, không thấy một bóng người, ngay cả tiểu thôn vừa rồi cũng nhìn không thấy. Tiểu Nhạn biết ngựa của mình chắc bị Bào Côn Lôn cưỡi đi bèn giận dữ nói:
- Được lắm! Bào Côn Lôn, hai lần ta để cho lão đào thoát. Chỉ vì Tiểu Nhạn này từ tâm mới lưu mạng lão đến giờ này. Chúng ta gặp nhau nhất định phải nói cho ra lẽ.
Chàng vì chuyện A Loan đang thọ thương nên không màng gì đến. Tuy ngựa đã mất đi nhưng chân chàng vẫn thoăn thoắt phóng đi.
Chẳng bao lâu, chàng đã đến Ôn Thần trấn.
Lúc này,trời đã vào chính ngọ. Ôn Thần trấn đã vắng hẳn người.
Chàng đến tửu điếm buổi sáng mình đã ghé, nhưng bếp lò đã tắt, bên trong vắng ngắt. Chưởng quỹ đang ngồi ngủ gục. Tiểu Nhạn cao giọng gọi:
- Chưởng quỹ.
Lão giật mình mở choàng mắt ra. Tiểu Nhạn vội hỏi:
- Nơi này có đại phu trị thương không?
Chưởng quỹ nói:
- Không có nhưng trong Xa điếm phía bắc có một thầy y nổi tiếng. Còn mua thuốc thì đi về phía đông trong một hẻm nhỏ có tiệm bán thuốc.
Tiểu Nhạn vội cảm tạ rồi chạy thật nhanh quả nhiên chàng tìm thấy tiệm thuốc.
Tiểu Nhạn đi vào cửa. Bên trong có một lão nhân hỏi:
- Khách quan định mua thuốc à?
Tiểu Nhạn gật đầu nói:
- Ta đến mua thuốc trị thương.
Lão nhân liền để chàng đi vào phòng thuốc. Trong đó chất la liệt bình thuốc, bao thuốc.
Tiểu Nhạn nói:
- Có thuốc gì trị thương mau đem ra đây?
Lão nhân đó trả lời:
- Thuốc ngoài da không có, chỉ có thuốc trị gân cốt.
Tiểu Nhạn lắc đầu:
- Không phải là xương cốt bị gãy mà là …
Chàng dùng tay vỗ vào ngực nói:
- Chỗ này bị thương mà người thọ thương là một nữ nhân.
Lão nhân:
- Không có rồi. Nhưng người bị thương ở đây đều đến chỗ lão mua thuốc trị gân cốt, nếu không họ mua Băng Phiến tán.
Tiểu Nhạn vừa nghe Băng Phiến tán là dược liệu có tính lạnh có thể làm giảm bớt đau đớn của vết thương. Thế nên, chàng mua hai lạng Băng Phiến tán. Mua xong,chàng vội vàng đi ra,chạy nhanh về Vân Thê Lãnh.
Chàng dùng tận sức chạy thật mau, trán đổ mồ hôi, hơi thở dồn dập đồng thời hối hận, nghĩ thầm:
“Lúc đó ta vì thương thế Dương Tiên Thái mà đến Thái Vô Thần Sư xin “Kim Cang Canh Sinh Tán”, lão phẫn nộ ném mấy bao dược xuống đất. Lúc đó, sao ta không lấy hai bao để dành đến giờ. Nếu có thuốc đó thương thế Loan muội đâu phải lo lắng”.
Chàng lại nhớ đến Lý Phụng Kiệt, giờ chắc đã thành gia thất rồi, còn mìn
mình vẫn phiêu bạt giang hồ, phí nhiều tâm sức mới gặp A Loan, nào ngờ đâu A Loan đã bị gia gia nàng ép gả cho người khác. Hiện giờ nàng tuy đã nói lời yêu thương ta nhưng nếu thương thế nàng đã khỏi ta lấy nàng làm thê tử. Kỷ Quảng Kiệt đến tìm, ta biết phải nói cùng hắn thế nào? Hơn nữa, mối thù của Bào Côn Lôn coi như xong sao?
Vừa chạy chàng vừa ảo não suy nghĩ, đã đến chân núi. Tiểu Nhạn tìm kiếm hồi lâu mới thấy thạch cấp lẫn trong đám cỏ hoang. Chàng vừa thở vừa kẹp bao thuốc chạy lên, giây lâu sau mới đến cửa Cửu Tiên quan.
Chàng thấy vết máu vương vãi lúc nãy đã được quét sạch nhưng thanh bảo kiếm vẫn tìm chưa thấy. Tiểu Nhạn đẩy cửa vào nhưng cửa đã được cài chặt. Tiểu Nhạn bèn phi thân nhún lên đầu tường định phóng xuống vào miếu nhưng hai chân chưa chạm đất, chợt có một vật bắn vào vai trái của chàng đau điếng cả người. Không nén được đau chàng ngồi bệt xuống đất, bao thuốc rơi ra văng tứ tung. Thì ra, một quả thiết đạn to như trái đào đã bắn vào chàng.
Tiểu Nhạn giật mình kinh dị. Vai trái tuy bị đau không thể động đậy nhưng chàng vẫn cố dùng sức đứng bật lên.
Lúc này ở phía bắc trong chính điện thứ nhất lại “vù, vù”, bắn ra bốn, năm quả thiết đạn, tuy nhiên Tiểu Nhạn tránh né được tất cả. Những quả đạn này bay vào tường rơi xuống đất.
Tiểu Nhạn giận dữ thét lớn:
- Người nào mau ra đây gặp ta?
Hai cửa bắc điện đột ngột mở ra, xuất hiện một lão đạo cô ước khoảng trên năm mươi, thân người cao lớn, mặc đạo y, tay phải còn cầm một quả thiết đạn, tay trái cầm cương đao sáng loáng.
Tiểu Nhạn ngạc nhiên nói:
- Đạo cô, có lẽ người nhận lầm người rồi. Tại hạ vừa từ đây đi ra mua thuốc trở về.
Tại hạ có muội tử đồng hương nằm ở đây mà chờ thuốc.
Tướng mạo đạo cô này trông có vẻ hung dữ như một con hổ cái. Bà ta cười gian ác nói:
- Mi cho rằng ta không biết mi là Giang Tiểu Nhạn sao? Mi học võ ở bên ngoài xong trở về Thiểm Nam hoành hành, áp bức Bào lão đầu, chia cắt phu phụ của Kỷ Quảng Kiệt và A Loan …
Tiểu Nhạn giận dữ nói:
- Đừng hồ đồ!
Lão đạo cô sắc mặt hiện nét hung tàn hơn:
- Thiết Trượng Tăng là sư đệ của ta. Hắn cứu A Loan từ Thái Lãnh đến đây. Đêm qua lại cứu Bào Côn Lôn, đồng thời cũng đã phái Tĩnh Huyền đến Trấn Ba mà gọi người Côn Lôn phái. Sư đệ ta Thiết Trượng Tăng là một hiệp tăng lại bị ngươi giết chết trong núi, mi còn dám đến miếu này sao?
Tiểu Nhạn cười nhạt nói:
- Thiết Trượng Tăng nếu là hiệp tăng, sao đêm qua lại tàn sát phu thê người thợ săn trong núi. Họ là những người thiện lương, vô tội tại sao lại giết họ?
Lão đạo cô nói:
- Chúng là cường đạo núi này. Có ta cùng sư đệ Thiết Trượng Tăng nên chúng giả làm thợ săn. Nếu bọn ta rời đi chúng liền vào trong núi cướp của hại người, chúng chết cũng không oan.
Tiểu Nhạn nói:
- Nếu vậy ta đã lầm rồi. Nhưng việc của Bào gia nhất thời không thể nói rõ. Tiền bối chỉ nhìn thấy Bào Chấn Phi niên kỷ đáng thương nhưng không biết lão như hổ dữ hại người. Giờ tại hạ không muốn ở trước cửa Phật Môn mà tranh biện, chỉ mong điều trị cho A Loan sớm lành thương thế, tại hạ cúng đường ít ngân lượng rồi đi.
Nói dứt, chàng khom người cúi nhặt thuốc rơi lúc nãy, đâu ngờ lão đạo cô lại ném thiết đạn ra. May Tiểu Nhạn phát giác kịp thời:
thân pháp tuyệt luân nên thiết đạn chỉ lướt ngang mang tai.
Tiểu Nhạn không còn nhịn nhục được nữa, chàng đứng bật người lên, mắt chiếu tinh quang.
Lão đạo cô vung đao chém tới. Tiểu Nhạn vươn người định tay không đoạt đao, nhưng thân thủ lão đạo cô cũng cực kỳ linh hoạt, đao pháp lại hiểm ác, loang loáng đổi thay chiêu pháp khiến Tiểu Nhạn hết cách đoạt đao chỉ còn cách nhảy nhót để tránh.
Chàng chợt khom người chụp lấy cây cung bắn đạn của đạo cô làm vũ khí, sử dụng thay cho bảo kiếm mà ngăn đỡ cương đao của lão đạo cô.
Đao pháp của lão đạo cô thật xuất chúng làm Tiểu Nhạn hết sức ngạc nhiên, cảm thấy võ nghệ của bà bà này cao thâm hơn Bào Chấn Phi và Kỷ Quảng Kiệt mà sức mạnh cũng không thua Thiết Trượng Tăng. Hơn nữa, lúc này vai trái của Tiểu Nhạn không thể vận sức được, cơ thể mỏi mệt lại thêm lòng mải lo thương thế A Loan, thực không muốn ác chiến.
Còn lão đạo cô tinh thần phấn chấn,mỗi đao đều áp chế chàng. Tiểu Nhạn phải mang hết tuyệt kỹ võ công mà thi triển ra.
Giao chiến hơn hai mươi hiệp chàng nóng nảy tránh một thế dùng cây cung thay cho ngón tay, điểm mạnh vào sườn của lão đạo cô.
Đạo cô dường như trúng phải ám khí lập tức buông đao, té nhào xuống đất.
Tiểu Nhạn đã buộc phải dùng thuật điểm huyệ